Tổng hợp bản án về tội cướp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 28/2022/HS-ST NGÀY 29/03/2022 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 3 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, Tòa án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2022/HSST ngày 12 tháng 01 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2022/QĐXXST-HS, ngày 14 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Phạm V T, sinh năm 1986; giới tính: Nam; nơi sinh: thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: thôn 8, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; học vấn: 04/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm V T và bà Nguyễn Thị Q; gia đình có 03 anh em, T là con thứ hai; vợ Đinh Thị H, sinh năm 1991; có 02 con lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2017; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 08/02/2018, Tòa án nhân dân huyện T áp dụng biện pháp đưa đi cai nghiện bắt buộc, đến ngày 12/9/2019, T chấp hành xong (chưa được xóa); bị tạm giữ từ ngày 01/9/2021 đến ngày 10/9/2021 chuyển tạm giam; có mặt.
- Bị hại:

Cháu Trương Công V, sinh năm 2016; nơi cư trú: Thôn 8, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
- Người đại diện hợp pháp của bị hại:

Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1987; nơi cư trú: Thôn 8, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng (là mẹ đẻ); vắng mặt.
- Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị hại:

Ông Bùi V B – Trợ giúp viên pháp lý Nhà nước – Trung tâm trợ giúp pháp lý Hải Phòng; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 28/8/2021 Công an xã A nhận được đơn trình báo của bà Nguyễn Thị quyết, sinh năm 1957 ở thôn 8, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng về việc cháu Trương Công V, sinh ngày 07/3/2016 (là cháu nội của bà) bị đối tượng Phạm V T chiếm đoạt 01 sợi dây chuyền kim loại bạc khi cháu V đang đeo trên cổ trị giá khoảng 300.000 đồng. Sau khi nhận được trình báo, Công an thị trấn A cho biết đang phối hợp với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T tiến hành điều tra, xác minh theo quy định. Ngày 01/9/2021, biết hành vi chiếm đoạt sợi dây chuyền bằng kim loại màu bạc của V bị phát hiện, Phạm V T đã đến Công an huyện T đầu thú và giao nộp sợi dây chuyền đã chiếm đoạt được cho V.
Theo Kết luận giám định bất động sản số 71/BB-HĐGTS ngày 01/9/2021 của Hội đồng giám định đất đai trong quá trình tố tụng hình sự huyện T: 01 dây chuyền bằng kim loại màu bạc, dài 40cm, rộng 0. 3 cm. Hai đầu có khuy được sử dụng loại trị giá 200.000 đồng.
Tại cơ quan điều tra Phạm V T khai nhận: Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 28/8/2021, T đi bộ đến nhà anh Thân V Hệ tại xóm 8, xã A, huyện T, TP Hải Phòng (là bạn cùng xóm như anh ấy). ) chơi. Khoảng 10 phút sau, T đi bộ về nhà, trên đường về T thấy cháu là Trương Công V đang ngồi ở vệ đường, trên cổ có sợi dây chuyền bằng bạc nên T nảy sinh ý định chiếm đoạt sợi dây chuyền. bán cháu V để lấy tiền. T đến chỗ V và hỏi "bố có nhà không" thì V trả lời "không có nhà". T quan sát thấy không có ai ở đó, T liền dùng tay phải ôm V từ phía sau, sau đó dùng tay giữ cổ V và tháo chiếc vòng trên cổ V ra, đồng thời ghì chặt V. Khi T rút tay ra, T nói “giữ yên”. . Vì sợ hãi nên V. chỉ biết khóc chứ không dám nói gì và cũng không dám chống cự. Sau khi tháo sợi dây chuyền, T thả V và đi bộ về nhà, sau đó T cầm sợi dây chuyền đến tiệm vàng Trần Toàn ở thôn Phố Mới, xã Quảng Thành, huyện T do Nguyễn Thị Thoa, sinh năm 1981 ở xóm 8, xã Hợp Thành, T. huyện Hải Phòng, chính chủ bán 150.000 đồng. Khi bán sợi dây chuyền, T không nói là do chiếm đoạt. 100% số tiền bán qua kênh có được T đã mua ma túy về sử dụng. Sau khi biết hành vi lấy sợi dây chuyền bị phát hiện, T đã đến tiệm vàng Trần Toàn để mua lại sợi dây chuyền và giao nộp cho cơ quan công an để trả lại cho nạn nhân.
Tại cơ quan điều tra, cháu ruột của nạn nhân Trương Công V và là người đại diện hợp pháp của nạn nhân khai nhận T có hành vi chiếm đoạt tài sản của cháu mình nên V đã chạy về nhà báo cho bà Nguyễn Thị Quyết (là bà ngoại) đến cơ quan công an trình báo. Hiện V đã được cơ quan điều tra trả lại sợi dây chuyền bằng kim loại màu bạc. Đại diện bị hại có đơn xin giảm án cho Phạm V T. Tại cơ quan điều tra, chị Nguyễn Thị Thoa, sinh năm 1981 ở xóm 8, xã A, huyện T, TP Hải Phòng giới thiệu: Chị là nhân viên bán hàng tại tiệm vàng Trần Toàn. Khoảng tối ngày 28/8/2021, một nam thanh niên (sau này gọi là Phạm V T) đến bán cho chị sợi dây chuyền bằng bạc với giá 150.000 đồng, đến sáng ngày 29/8/2021 chị T đến hỏi mua. với giá 190.000đ. Trong quá trình trao đổi, T không nói cho chị Thoa biết dây chuyền mạ bạc này là của T chiếm đoạt.
Cáo trạng số 15/CT-VKS ngày 12/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên truy tố Phạm V T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 168 BLHS. CÁC.
Tại phiên tòa, bị cáo Phạm V T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố. Và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo chấp hành án và có cơ hội sớm trở về đoàn tụ cùng gia đình.
Bị hại và đại diện hợp pháp hợp pháp của bị hại vắng mặt tại phiên tòa, song đã có lời khai tại cơ quan điều tra không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị hại tại phiên tòa không có ý kiến gì trình bày thêm đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình của bị cáo cho bị cáo được hưởng khoan hồng của pháp luật xét xử bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo có cơ hội sớm trở về đoàn tụ cùng gia đình và người thân.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T giữ nguyên quan điểm truy tố Phạm V T tội "Cướp tài sản" theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử, căn cứ điểm e khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội xử phạt bị cáo Phạm V T từ 08 đến 09 năm tù về tội Cướp tài sản; Về dân sự đã được giải quyết xong trong giai đoạn điều tra bị hại, không có yêu cầu đề nghị gì thêm, nên không đề cập giải quyết; Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Viện kiểm sát nhân dân huyện T và người tiến hành tố tụng thuộc các cơ quan này trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp lời khai tại phiên tòa, phù hợp với khời khai bị hại, lời khai người làm chứng và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; Biên bản xác định hiện trường; phù hợp với nội dung bản kết luận định định giá tài sản số 71/BB-HĐĐGTS ngày 01/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ xác định: Ngày 28/8/2021 Phạm V T có hành vi dùng tay ôm cháu Trương Công V từ phía sau, ghì vào vùng cổ và đe dọa khiến cháu V không có khả năng chống cự (tại thời điểm cháu V mới 05 tuổi, 6 tháng, 02 ngày) để chiếm đoạt tài sản là sợi dây chuyền kim loại bạc có giá trị 200.000 đồng tại khu vực thôn 8, xã A, huyện T, Hải Phòng. Do vậy đủ cơ sở kết luận bị cáo Phạm V T phạm tội "Cướp tài sản" theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự.
Bản Cáo trạng số 145/CT-VKS ngày 29 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên đã truy tố Phạm V T về tội "Cướp tài sản" theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, thân thể của người khác được pháp luật bảo vệ nên cần áp dụng hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo.
[4] Xem xét đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, tính chất mức độ hành vi phạm tội và quyết định hình phạt:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi bị bắt quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tự nguyện tác động gia đình (mẹ bị cáo) chuộc lại tài sản trả cho bị hại và bị hại cũng như người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, ngoài ra ông nội bị cáo là người có công với cách mạng, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Song xét hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy nên cần áp dụng hình phạt nghiêm buộc bị cáo cách ly xã hội một thời gian như mức đề xuất của kiểm sát viên mới có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. [5] Về trách nhiệm dân sự Đã được giải quyết ở giai đoạn điều tra nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[6] Về hình phạt bổ sung Tại khoản 6 Điều 168 BLHS, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, nhưng do bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
[7] Về án phí Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì những lý do trên,

PHÁN QUYẾT

1. Theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, tuyên phạt bị cáo Phạm V T 08 (tám năm tù) về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 01 tháng 9 năm 2021.
2. Về án phí: Theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, bị cáo Phạm V T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo bản án Bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày T án.
Bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án tống đạt hoặc niêm yết.
Trường hợp Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Cướp tài sản bản án

Cướp tài sản bản án


TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 08/2022/HSST NGÀY 24/01/2022 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Trong ngày 24/01/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ mở phiên tòa để xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 04/2022/HSST ngày 12/01/2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2022/HSST-QĐ ngày 13/01/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn Th, Sinh ngày: 20/10/1981; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Đăng ký HKTT và nơi ở: Đội a, khu M, phường M, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc:Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 0/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố đẻ: Nguyễn Văn S, sinh năm 1961; Mẹ đẻ: Bùi Thị T, sinh năm 1959; Vợ, con: Chưa. Tiền án tiền sự: 03.
163/2005/HS-ST ngày 22/9/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, xử phạt Th 36 tháng tù về tội cướp tài sản, buộc Th phải bồi thường cho người bị hại số tiền là 570.000 đồng. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù tháng 02/2008 và nộp án phí ngày 23/11/2005. Về số tiền bồi thường dân sự, qua đối chiếu sổ sách tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Việt Trì, Chi cục ban quản lý không nhận số tiền trên.
310/2008/HS-ST ngày 22/12/2008 của TAND TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, tuyên phạt 12 tháng tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (giá trị tài sản). tài sản riêng 630.000 đồng), truy thu sung quỹ nhà nước số tiền 13.500 đồng, án phí hình sự sơ thẩm 50.000 đồng. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 11-10-2009 và đến ngày 16-4-2009 mới giải quyết xong tiền truy thu, án phí.
148/2010/HS-ST ngày 25/8/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, xử phạt 15 tháng tù về tội trộm cắp tài sản (trị giá tài sản trộm cắp 3.052.000 đồng), Th phải chịu trách nhiệm hình sự. án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/8/2011 và nộp án phí ngày 11/6/2012.
Lịch sử: Không.
Nguyễn Văn Th bị khởi tố về tội cướp tài sản ngày 27/3/2013, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo quyết định chính thức, bị tạm giam từ ngày 25/5/2021 đến ngày 31/5/2021 thì tạm giam. Bị can hiện đang bị tạm giữ tại Trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
Bị hại: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1991, trú tại: thôn Y, xã A, huyện Th, tỉnh Bắc Ninh (Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG TÌNH HUỐNG

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến phiên tòa, có thể tóm tắt nội dung vụ án như sau:

Năm 2013, chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1991, HKTT: Thôn Y, xã A, huyện Th, tỉnh Bắc Ninh, Địa chỉ tạm trú: Tổ a, khu b, phường G, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. học tại thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Do có quen biết với Nguyễn Văn Th., sinh năm 1981, trú tại: Đội A, khu M, phường M, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, thấy Th khéo tay nên chị H đã nhờ Th móc nối cho chị một chiếc ni lông. gà đồ chơi. Khoảng 19h ngày 11/3/2013, chị H dùng số điện thoại 0989.162.932 gọi vào số điện thoại 0162.798.5534 của Th hỏi xem Th đã xong chưa. Lúc này, do cần tiền để chi tiêu cá nhân nên Th nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của chị H. Th nói với chị H rằng công việc đã hoàn thành và chị H sẽ chuyển vào nhà sách do anh chọn ở dốc điện lực khu L, huyện G., TP.Việt Trì gặp Th. Sau đó Th đến một quán cơm ở khu chợ 5 tầng khu G - thị xã Việt Trì (Th không biết quán đó là quán nào ). Lợi dụng lúc người đi buôn không để ý, Th đã lấy 1 con dao gọt hoa quả có cán màu vàng dài khoảng 20 cm giấu vào túi quần với mục đích dùng dao uy hiếp để chiếm đoạt tài sản của chị H. Chị H đi xe máy mini màu đỏ đến điểm hẹn nhưng không gặp Th nên liên tục gọi điện cho Th, Th rủ chị H đi vào đường phía sau tiệm hớt tóc H.L thuộc khu M, phường M, TP.Việt Nam. Trí, tỉnh Phú Thọ. Khi đến nơi, bà H thấy Th. từ trong bụi chuối bên phải đường đi ra. Bà H hỏi “Gà của bà đâu?”, Th không nói gì mà chạy theo bà H, dùng tay trái quàng vào cổ kéo bà H vào gốc chuối. Do bất ngờ chị H bị trượt chân ngã nên Th cũng bị ngã theo. Th vẫn ôm chị H, tay phải kề vào cổ chị H một con dao đã chuẩn bị sẵn và nói: “Tôi đang bị truy nã, cần 200.000 đồng để bỏ trốn”. Khi đó, chị H đang cầm trên tay chiếc điện thoại di động NOKIA 1280 thì có cuộc gọi đến. Th giật chiếc điện thoại trên tay chị H, tắt nguồn rồi cho vào túi quần của Th. Sau đó Th tiếp tục dùng dao uy hiếp chị H, cởi áo và dùng dao cắt áo ngực của chị H, lấy đi. cởi quần chị H, lúc này chị H vẫn nằm ngửa. Th tự cởi quần của chị Th rồi bắt chị nằm nghiêng sang bên trái, Th đưa dương vật đã cương cứng của chị Th vào âm hộ chị H và giao cấu với chị H khoảng 5 - 7 phút thì xuất tinh. Sau khi quan hệ tình dục xong, Th và chị H mặc quần áo rồi Th tiếp tục ép chị H đưa chìa khóa phòng trọ cho mình nên do sợ hãi nên chị H đã đưa chìa khóa phòng ngủ cho Th sử dụng. dùng dây vải trói tay chị H ra phía sau, lấy áo ngực của chị H nhét vào miệng chị H. Sau đó Th điều khiển xe đạp của chị H chở về phòng trọ chị H thuê trọ tại khu phố a) phường G, TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ (Con dao để trong giỏ xe đạp). Đến nơi, Th để xe đạp cạnh hàng rào nhà trọ, vào nhà trọ bẻ khóa phòng chị H lấy chiếc máy tính xách tay hiệu DELL màu đen bỏ vào túi xách màu đen. Sau đó Th lấy túi đựng laptop, khóa cửa phòng ngủ và bước ra ngoài. Ra khỏi cửa nhà trọ Th gặp chị Nguyễn Thị M sinh năm 1992, HKTT: xã M, huyện Y, tỉnh Nghệ An, chị M yêu cầu Th đưa chìa khóa phòng trọ của H cho chị M nhưng Th không đưa. không cho nó. Xách cặp laptop, đi đường tắt vào đường Nguyễn Tất Thành. Th đi bộ đến khu chợ 5 tầng thuộc khu H, phường G, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ và bán chiếc máy vi tính vừa lấy được của chị H cho anh Nguyễn Minh T, sinh năm 1979, trú tại: Tổ c. , khu d, khu G, TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ với giá 1.500.000đ. Sau khi mua máy tính, anh T kiểm tra bên trong túi đựng máy tính có 01 Dcom 3G, 01 khoen chìa khóa và 01 dây sạc máy tính.
Chi H bị Th dùng dây vải trói tay và nhét áo vào miệng, sau khi Th lấy chìa khóa phòng trọ và chiếc xe đạp thì anh H đã mở được còng tay và đầu thú đến Công an phường M trình báo. sự cố.
Cơ quan Điều tra - Công an thành phố Việt Trì đã tiến hành khám nghiệm hiện trường thu giữ: 01 quần lót nam màu xám, thắt lưng đen in chữ PUMA màu đỏ; 01 hộp nhựa nắp xanh có dòng chữ “Sáp tạo kiểu hàng mới”; 01 dây chuối khô thắt nút; 01 sợi dây vải màu xanh dài 1,26m và 01 con dao gọt hoa quả dài 20 cm có cán màu vàng, chiều rộng lưỡi 02 cm, mũi nhọn để phục vụ công tác điều tra. Trong quá trình điều tra, ngày 20/3/2013 anh Nguyễn Minh T đã giao nộp 01 máy tính xách tay hiệu DELL màu đen, 01 cặp đựng laptop màu đen hiệu DELL, 01 dây sạc máy tính, 01 Dcom 3G hiệu Viettel, 01 chùm chìa khóa hiệu Việt Tiệp. tài sản ông T mua của Nguyễn Văn Th.

Cơ quan điều tra đã tiến hành trưng cầu giám định tỷ lệ phần trăm sức khỏe của chị Nguyễn Thị H và trưng cầu giám định tài sản mà Nguyễn Văn Th đã chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị H.
Ngày 12/3/2013, Phiếu giám định pháp y về tình dục số 74/2012/PY-TD của Trung tâm pháp y - Sở Y tế Vĩnh Phúc kết luận: “Màng trinh bị rách cũ. Thiệt hại về sức khỏe hiện tại là: 2% (hai phần trăm).”
Tại biên bản định giá tài sản ngày 15/3/2013 của Hội đồng định giá tài sản - UBND thành phố Việt Trì, giá trị 01 chiếc xe đạp mini màu đỏ, loại xe đã qua sử dụng là 224 000 đồng (Hai trăm hai mươi bốn nghìn đồng).
Tại Biên bản định giá tài sản ngày 02/4/2013 của Hội đồng định giá tài sản - UBND thành phố Việt Trì, 01 máy tính xách tay màu đen, nhãn hiệu DELL, xuất xứ Trung Quốc, màn hình 14.0 inches, kèm theo 01 dây sạc máy tính, 01 túi đựng máy tính và 01 Dcom 3G hiệu Viettel, dùng hết là 4.680.000 đồng (bốn triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng); 01 điện thoại di động hiệu 1280, màu đen, đã qua sử dụng trị giá 120.000đ (một trăm hai mươi nghìn đồng). Tổng giá trị tài sản mà Nguyễn Văn Th đã chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị H là: 5.024.000 đồng (Năm triệu không trăm hai mươi tư nghìn đồng).
Căn cứ tài liệu điều tra thu thập được, ngày 27/3/2013, Cơ quan điều tra hình sự - Công an thành phố Việt Trì đã mở vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn Th về tội cướp tài sản. Sau khi phạm tội, Nguyễn Văn Th bỏ trốn, hết thời hạn điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Việt Trì đã ra quyết định truy nã đối với Th và ra quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự, quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can. Ngày 25/5/2021, khi Th đang lẩn trốn và lang thang trên địa bàn xã P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa thì bị phòng cảnh sát hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ bắt giữ, bàn giao cho cơ quan công an điều tra. - Công an TP Việt Trì đang điều tra theo quy định của pháp luật. Cơ quan điều tra - Công an thành phố Việt Trì đã ra quyết định tiếp tục điều tra vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn Th để điều tra theo quy định. Tại cơ quan Công an - Công an TP Việt Trì, Nguyễn Văn Th khai nhận đã dùng dao (dao gọt hoa quả) khống chế, đe dọa để thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn của anh Th. rồi dùng dây vải trói tay, nhét áo vào miệng anh Th. , lấy chìa khóa phòng, chạy xe đạp của Nguyễn Thị H đến phòng trọ của Nguyễn Thị H, tiếp tục lấy tài sản của Nguyễn Thị H rồi bỏ trốn như đã nói ở trên.
08/CT-VKS-VT ngày 10/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Nguyễn Văn Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại các điểm c, d, khoản 2 điều 133 BLHS 1999 sửa đổi bổ sung 2009.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Th. thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà cáo trạng đã truy tố. Do bị cáo không có công việc ổn định nên mục đích của bị cáo là lấy trộm hàng để bán lại lấy tiền tiêu xài cá nhân. Đối với hành vi phạm tội của mình, bị cáo kính đề nghị HĐXX xử lý theo quy định của pháp luật. Kiểm sát viên đề nghị Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo Nguyễn Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Theo điểm c, d khoản 2 điều 133; điểm p khoản 1 điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 đề nghị xử phạt bị cáo Th từ 09 năm đến 10 năm tù. Hình phạt tù tính từ ngày 25 tháng 5 năm 2021. Về hình phạt bổ sung: không áp dụng. Về mức án phí đề nghị theo quy định pháp luật. Trước khi hội đồng xét xử vào phòng nghị án, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình, xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN XÉT CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, trên cơ sở các tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi và nhận tội tại phiên tòa. Tòa án nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục:

Các hành vi, quyết định của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Việt Trì, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, VKS trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến, khiếu nại đối với hành vi tố tụng, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Quyết định tố tụng của cơ quan tố tụng được tống đạt cho bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong thời hạn do pháp luật quy định. Vì vậy, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều là hợp pháp.
[2] Về nội dung:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra, truy tố; tính thống nhất với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận:

Vào khoảng 19h30 ngày 11/3/2013, tại khu dân cư khu M, phường M, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, Nguyễn Văn Th có hành vi sử dụng dao gọt hoa quả là phương tiện giao thông. Nguyễn Thị H nguy hiểm rồi đe dọa sẽ giao cấu với chị Nguyễn Thị H. Sau đó Th tiếp tục dùng dây vải khống chế chị H., dùng áo nhét vào miệng chị H. để chiếm đoạt số hàng hóa của chị với tổng trị giá 5.024.000 đồng. H. Hàng hóa phù hợp Cơ quan điều tra đã thu và trả lại cho người bị hại, người bị hại đã nhận đầy đủ và không có yêu cầu gì thêm đối với hàng hóa phù hợp không thu hồi được. Chị H rút đơn kiện và không đề nghị xử lý Th về hành vi dùng vũ lực giao cấu trái ý muốn của chị. Như vậy, hành vi phạm tội của Th phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c, d khoản 2 điều 133 BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, với hình phạt chấp hành d hình phạt tù từ 7 đến 15 năm.
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, phá hoại an ninh, trật tự và an toàn xã hội của địa phương. phải bị xử lý nghiêm minh trước pháp luật. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm minh, cách ly khỏi xã hội một thời gian để đảm bảo tính răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung.
Khi quyết định xử phạt phải tính đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Bị cáo không phải chịu bất kỳ tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào đối với mình. Bị cáo đã bị TAND TP Việt Trì xét xử năm 2005 về tội “Trộm cắp tài sản” và bị tuyên phạt 36 tháng tù. Năm 2008, TAND TP Việt Trì xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và bị tuyên phạt 12 tháng tù. Năm 2010, TAND TP Việt Trì xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” và bị phạt 15 tháng tù. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 11/6/2012. Tuy nhiên, bị cáo không coi đây là bài học kinh nghiệm cho bản thân mà tiếp tục phạm tội khi chưa được xóa án tích nên lần này bị cáo được áp dụng tình tiết hạn chế. đã tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm a. c Khoản 2, điều 133 BLHS 1999, ngoài ra, trong quá trình thực hiện tội phạm, bị cáo đã dùng dao đe dọa chị H nên xử phạt bị cáo với tình tiết quy định tại điểm d khoản 2 mục 133 của Bộ luật Hình sự năm 1999, tức là sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc các thiết bị nguy hiểm khác. Điều này cho thấy bị cáo rất coi thường pháp luật.
Bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra cho thấy bị cáo không có việc làm, không có thu nhập ổn định, sống phụ thuộc vào gia đình, ngoài đồ dùng cá nhân phục vụ sinh hoạt thì bị cáo không có tài sản riêng. là hợp lệ nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 điều 133 BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung 2009.
Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Tang vật gồm: 01 quần lót nam màu xám, dây lưng quần màu đen in chữ PUMA màu đỏ, 01 hộp nhựa nắp màu xanh in dòng chữ “Sản phẩm sáp tạo kiểu mới”, 01 dây chuối khô buộc, 01 dây vải màu xanh dài 1,26m dài và 01 con dao gọt hoa quả dài 20cm có cán màu vàng, lưỡi rộng 02cm, đầu nhọn. Năm 2017, sau khi chuyển về trụ sở mới, Công an TP Việt Trì đã tiến hành kiểm tra kho vật chứng nhưng không tìm thấy vật chứng nói trên. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì đã ra Kiến nghị số 14/KN-VKS-HS ngày 10/01/2022. Không nên xem xét thao túng với những chứng cứ trên.
- Đối với hành vi của Nguyễn Văn Th hiếp dâm chị Nguyễn Thị H, chị Nguyễn Thị H có đơn xin rút yêu cầu xử lý đối với Nguyễn Văn Th về hành vi này nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý, coi đây là tội phạm.
- Đối với anh Nguyễn Minh T do không biết chiếc máy tính mà Nguyễn Văn Th đã bán cho mình là tài sản do phạm tội mà có, đồng thời trong quá trình điều tra vụ án, anh Nguyễn Minh T đã bày tỏ quan điểm của mình là không yêu cầu Nguyễn Văn Th bồi thường số tiền 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng) tiền bán máy tính cho anh T mà không đề cập đến cơ quan điều tra xử lý thích đáng.
[3]. Về án phí: Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì những lý do trên,

PHÁN QUYẾT

Theo điểm c, d khoản 2 điều 133; Tiết 33; điểm p khoản 1 điều 46 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009; khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; tiết a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
1. Kết tội bị cáo Nguyễn Văn Th phạm tội “cướp tài sản”.
Tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn Th 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 25 tháng 5 năm 2021.
Về hình phạt bổ sung: không áp dụng.
2. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Văn Th phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo yêu cầu xét xử phúc thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày đăng bản án.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo