TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H'LEO, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN SỐ 01/2021/HS-ST NGÀY 01/11/2021 ĐỐI VỚI THƯƠNG TÍCH MỚI
Ngày 11/01/2021, tại Phòng xử án - Tòa án nhân dân huyện Ea H'Leo, phiên tòa xét xử lưu động Vụ án hình sự số: 97/2020/TLST-HS, ngày 07/12/2020 a đã được khai mạc. và theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2020/QĐXXST-HS, ngày 28/12/2020 đối với bị cáo:
- Họ và tên: Nguyễn Phi H, sinh năm 1984, quê quán Đắk Lắk; nơi cư trú: Thôn 5, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Nông dân; trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc Kinh; giới tính nam; không tôn giáo; Tiếng Việt; con ông Nguyễn Văn T và bà Võ Thị H; có vợ là Phạm Thị H và có 5 người con; lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 14/10/2020 đến nay. Quà
- Nạn nhân: Chị Lương Thị Thu T, sinh năm 1982. Nơi cư trú: Thôn 1, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt. - Người đại diện hợp pháp: cho người bị hại là anh Đặng Văn B, sinh năm 1980 (chồng của người bị hại). Trú quán: Thôn 1, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Quà.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Phạm Thị Bích N, sinh năm 1994. Trú quán: Thôn 1, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt
- Người làm chứng:
1. Cháu Bùi Tô Thanh T, sinh năm 2010 (người đại diện theo pháp luật là bà Tô Thị B, mẹ đẻ của cháu T). Trú quán: Thôn 5, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt
2. Anh Nguyễn Thanh H, sinh năm 1988. Trú quán: Khóm 3, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt
3. Bà Phạm Thị Bích N, sinh năm 1994. HKTT: Thôn 1, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt
4. bà Nguyễn Thị Mỹ H, sinh năm 2005 (người đại diện theo pháp luật là bà Phạm Thị H, mẹ đẻ của bà H). Trú quán: Thôn 5, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Quà.
5. Anh Lê Văn N, sinh năm 1975. Trú tại: Thôn 5, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Quá trình sinh sống và sinh hoạt cùng gia đình tại thôn 5, xã C, Nguyễn Phi H thấy cây gỗ Bời Lời trong vườn sát với đường liên xã Cư Mốt và xã Ea Wy. Cây gỗ đứng có hướng nghiêng ra đường và có khả năng đổ khi trời mưa, bão gây nguy hiểm cho người tham gia giao thông. Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 26 tháng 6 năm 2020, H không đặt vật hoặc biển báo hiệu cảnh báo cho người tham gia giao thông biết mà chỉ nói với con gái là cháu Nguyễn Thị Mỹ H ra đường đứng chặn các phương tiện qua lại trên đường để H sử dụng máy cưa xăng cắt hạ cây gỗ. Cháu H ra vị trí cách cây gỗ H cắt hạ khoảng 03 mét dùng tay trái ra hiệu cho xe ô tô nhãn hiệu Inova do anh Nguyễn Thanh H điều khiển đang lưu thông trên đường theo hướng từ xã Ea Wy về xã Cư Mốt đi chậm và dừng lại phía bên kia đường đối diện với cây gỗ mà H đang cắt, Thấy xe ô tô dừng lại, cháu H đi lên đoạn đường cong cách vị trí H cắt cây khoảng 50 mét để chặn phương tiện lưu thông theo hướng từ xã Cư Mốt đến xã Ea Wy. Lúc này, chị Lương Thị Thu T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47D1 - 436.96 chở chị Phạm Thị Bích N ngồi phía sau đang lưu thông trên đường, theo hướng từ xã Cư Mốt đến xã Ea Wy, thấy cháu H đứng bên lề đường vẫy tay nhưng chị T không dừng xe mà tiếp tục cho xe chạy vì nghĩ rằng cháu H là người xin đi nhờ xe. Khi chị T và xe máy của chị N vừa đi đến trạm H để chặt cây, lúc này cây vừa đổ xuống đường, nhánh cây va vào tay lái xe máy của chị T. Bà T bị thương nặng còn bà N bị bầm tím ở tay và đầu gối phải.
Ngày 30/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã tiến hành thực nghiệm điều tra xác định: Tầm nhìn của người đi đường tại vị trí gốc cây mà Nguyễn Phi H bắn là 50 mét, ở khoảng cách 50 mét không có vật cản tầm nhìn.
Tại Bản kết luận pháp y về thương tích số: 721/TgT-TTPY, ngày 08/7/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Lương Thị Thu T bị tổn thương cơ thể do một vết thương gây ra, tức là 71%. .
Về trách nhiệm dân sự: đại diện hợp pháp của người bị hại yêu cầu bị cáo tạm thời bồi thường số tiền là 239.546.000 đồng cho đến thời điểm xét xử sơ thẩm (do người bị hại hiện đang điều trị vết thương). Bị cáo cũng đồng ý với việc này. đền bù. Khi giải quyết vụ án, bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho người bị hại số tiền là 23.000.000 đồng. Nay đại diện hợp pháp của người bị hại yêu cầu bị cáo tiếp tục trả số tiền còn lại là 216.546.000 đồng.
Sau này, nếu phát sinh các khoản tiền chữa trị thương tật hợp lý khác thì đại diện hợp pháp của người bị hại sẽ thỏa thuận hoặc khởi kiện ra tòa độc lập để yêu cầu bị cáo tiếp tục bồi thường theo quy định.
Về mức án: Đại diện hợp pháp của bị hại đề nghị HĐXX cấp sơ thẩm giảm nhẹ mức án cho bị cáo.
Tại Cáo trạng số 01/CT - VKS, ngày 03/12/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H'Leo đã truy tố, xét xử bị can Nguyễn Phi H về tội "vô ý gây thương tích". Theo điểm b khoản 2 điều 138 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện cơ quan công tố giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đánh giá tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo và xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Theo đó, đề nghị Hội đồng xét xử xét xử:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Phi H phạm tội “cố ý gây thương tích”.
áp dụng tiết b khoản 2 Điều 138; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 và khoản 2 Điều 65 BLHS.
Tuyên phạt bị cáo Nguyễn Phi H từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt đã tuyên.
Đối với thương tích của chị Phạm Thị Bích N, chị N không yêu cầu bị đơn bồi thường nên không đề cập xem xét. Về xử lý vật chứng: Yêu cầu HĐXX thụ lý việc Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Ea H'Leo đã thu giữ 01 máy cưa đĩa màu trắng vàng, nhãn hiệu STIHL, là tài sản của gia đình bị cáo. Vì đây không phải là vật chứng liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội của bị cáo nên phải trả lại cho gia đình bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: chấp nhận việc bị cáo và người đại diện hợp pháp của người bị hại đã thỏa thuận mức bồi thường là 239.546.000 đồng, tạm tính cho đến khi xét xử sơ thẩm (do người bị hại đang trong thời gian xét xử). hiệp ước). Bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho người bị hại số tiền là 23.000.000 đồng. Nay buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường số tiền còn lại cho người bị hại là bà Lương Thị Thu T là 216.546.000 đồng. Sau này, nếu phát sinh các chi phí hợp lý khác cho việc cứu chữa thương tích thì người đại diện hợp pháp của người bị thiệt hại có quyền thỏa thuận hoặc khởi kiện độc lập yêu cầu bị cáo tiếp tục bồi thường theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại không phản đối quan điểm truy tố của Viện kiểm sát.
Bị cáo nói lần cuối: Bị cáo mong hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ mức án.
NHẬN XÉT CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào nội dung vụ án và các tang vật đã được đưa ra xét xử tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:
[Đầu tiên]. Về tố tụng: các bản án, quyết định của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H'Leo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H'Leo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị đơn không có ý kiến, khiếu nại gì đối với các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2]. Về nội dung: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận: Vào khoảng 16 giờ ngày 26/6/2020, tại thôn 5, thị trấn Cư Mốt, huyện Ea H'Leo, tỉnh Đắk Lắk. Trong quá trình chặt cây trong vườn, do không chấp hành các quy tắc đảm bảo an toàn cho người đi đường, Nguyễn Phi H đã để cây đổ xuống đường khiến nhánh cây đâm trực diện vào xe máy do chị Lương điều khiển. Thi Thu T đang điều khiển xe trên đường đã tông xe máy của chị T và chị N xuống đường. Hậu quả, chị T bị thương tích 71%; còn chị N. bị bầm tím ở tay phải và đầu gối phải.
Như vậy, có đủ căn cứ xác định hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “vô ý gây thương tích” theo điểm b khoản 2 điều 138 BLHS.
Điều 138 BLHS quy định:
1. Người nào gây thương tích hoặc vô ý gây thiệt hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt cảnh cáo và phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt tiền đến 01 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ 01 năm đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
……………………..
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
Hội đồng xét xử nhận định: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Mặc dù, bị cáo có đầy đủ năng lực nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng do ý thức chủ quan, quá tự tin vào hành vi của mình, bị cáo cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể tránh được nên hành vi chặt chém của bị cáo cây cối trong vườn đã gián tiếp xâm hại đến sức khỏe của chị Lương Thị Thu T với tỷ lệ thương tật 71% và hậu quả xảy ra là ngoài tầm kiểm soát của bị cáo, do đó bị cáo phạm tội với lỗi vô ý, quá tự tin. Vì vậy, cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện. [3]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không [4]. Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, đã ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại cho người bị hại; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; đại diện hợp pháp của bị hại đề nghị giảm án cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS nên phải được áp dụng để thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.
Do đó không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo tự cải tạo dưới sự giám sát, giáo dục của gia đình và chính quyền địa phương là đủ sức răn đe đối với bị cáo. [5]. Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của người bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho người bị hại tổng số tiền là 239.546.000 đồng tạm tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm (vì người bị hại đang là đối tượng tham gia tố tụng) và bị cáo. cũng chấp nhận số tiền bồi thường này. Khi giải quyết vụ án, bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho người bị hại số tiền là 23.000.000 đồng. Nay đại diện hợp pháp của người bị hại yêu cầu bị cáo tiếp tục trả số tiền còn lại là 216.546.000 đồng.
Sau này, nếu phát sinh các chi phí hợp lý khác cho việc cứu chữa thương tích thì người đại diện hợp pháp của người bị thiệt hại có quyền thỏa thuận hoặc khởi kiện độc lập yêu cầu bị cáo tiếp tục bồi thường theo quy định của pháp luật. [6]. Về xử lý vật chứng: Thống nhất việc Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Ea H'Leo thu giữ 01 máy cưa đĩa màu trắng vàng, nhãn hiệu STIHL, là tài sản của gia đình bị can. Vì đây không phải là vật chứng liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội của bị cáo nên phải trả lại cho gia đình bị cáo.
[7]. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định. Vì những lý do trên,
PHÁN QUYẾT
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Phi H phạm tội “cố ý gây thương tích”.
áp dụng tiết b khoản 2 Điều 138; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 và khoản 2 Điều 65 BLHS.
Tuyên phạt bị cáo Nguyễn Phi H 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trong thời gian thử thách, bị cáo được giao cho UBND xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk giám sát, giáo dục. Gia đình bị can có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương giám sát, giáo dục bị can.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì áp dụng quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật tố tụng hình sự từ hai lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù tương ứng với mức án đã được ân giảm. Trong trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Toà án buộc bị cáo chấp hành hình phạt của bản án trước và cộng vào hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 BLHS.
Về trách nhiệm dân sự: áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS; Mục 584; Mục 585; Mục 586; Điều 590 và Điều 592 BLDS. Đồng ý bị cáo và người đại diện hợp pháp của người bị hại đã thống nhất mức bồi thường tạm thời là 239.546.000 đồng cho đến thời điểm xét xử sơ thẩm (do người bị hại hiện đang điều trị vết thương). Bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho người bị hại số tiền là 23.000.000 đồng. Nay buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho người bị hại là chị Lương Thị Thu T 216.546.000 đồng (gồm tiền thiệt hại do bị tổn hại về sức khỏe, tổn thất về tinh thần và các chi phí khác).
Sau này, nếu phát sinh các chi phí hợp lý khác cho việc điều trị thương tích thì người đại diện hợp pháp của người bị thiệt hại có quyền thỏa thuận hoặc khởi kiện độc lập yêu cầu bị cáo tiếp tục bồi thường thiệt hại theo quy định.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành xong bản án, toàn bộ số tiền và số tiền người phải thi hành án trả hàng tháng còn tiền lãi đối với số nợ còn lại của người phải thi hành án theo mức lãi suất do pháp luật quy định. quy định tại khoản 2 điều 468 bộ luật dân sự. Về xử lý: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Đối với chiếc máy cưa đĩa 01 màu vàng và trắng nhãn hiệu STIHL là tài sản của gia đình bị cáo. Vì đây không phải là vật chứng liên quan trực tiếp đến tội phạm nên phải trả lại cho gia đình bị can.
Đối với 1 đoạn cây Bời lời dài 4,3m không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy. (Đặc điểm tang vật được mô tả và lưu trong hồ sơ).
Về án phí: điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Nguyễn Phi H phải chịu số tiền 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 10.827.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày đăng bản án có hiệu lực pháp luật.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự và người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các mục 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án gây thương tích
TÒA ÁN HUYỆN THƯỜNG XUÂN, TỈNH THANH HÓA
Bản án 43/2021/HS-ST ngày 29/9/2021 về tội vô ý gây thương tích
Ngày 29/9/2021 tại Tòa án nhân dân huyện Thường Xuân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự số: 36/2021/HS-ST ngày 18/8/2021; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2021/QĐXXST-HS ngày 15/9/2021 đối với bị cáo:
Cầm Bá T, sinh năm: 1979, xã T1, huyện TX, tỉnh Thanh Hóa; Trú quán: Thôn TL, xã T1, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Nghề nghiệp: Lao động tự do; giới tính Nam; Tiếng Việt; tiếng Thái; Không tôn giáo; Trình độ học vấn: Không đi học; các con: Cầm Bá C (đã chết) và con là Lương Thị P; vợ Vi Thị K; có 02 con; Hồ sơ tội phạm; Lịch sử: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam: không. Bị cáo bị ngăn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại tòa).
NẠN NHÂN:
-M. : Cầm Bá X, sinh năm : 1971 HKTT : Thôn TL, xã T1, TX.Thanh Hóa (hiện nay);
- Người đại diện theo ủy quyền của người bị hại Cầm Bá X là Cầm Bá D (con ông Cầm Bá X) (có mặt);
NGƯỜI BẢO VỆ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA LỢI ÍCH HÌNH ẢNH:
Bà: Nguyễn Thị H, Sinh: 1983 Nghề nghiệp: Luật sư – Công ty Luật Hoàng Sa, Chi nhánh Thanh Hóa Địa chỉ: Số 10, Tô Hiến Thành, P. Điện Biên, TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa (có mặt);
NHÂN CHỨNG:
1. Ông Cầm Bá Y, sinh năm: 1963 (có mặt);
2. Anh Cầm Bá D, sinh năm: 1996 (có mặt);
3. Chị Cầm Bá T, sinh năm: 1996 (có mặt);
4. Bà Vi Thị K, sinh năm: 1982 (có mặt);
5. Bà Cầm Thị T, sinh năm: 1981 (vắng mặt);
6. Bà Hà Thị H, sinh năm: 1962 (vắng mặt);
7. Bà Lương Thị C, sinh năm: 1950 (vắng mặt);
8. Ông Vi Văn T, Sinh: 1964 (có mặt).
NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
Qua các tài liệu có trong bản tóm tắt và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, tóm tắt nội dung vụ án như sau:
Sáng ngày 28/01/2021, anh Cầm Bá X, sinh năm 1979 và anh Cầm Bá T, sinh năm 1979, ở cùng thôn, thôn TL, xã T1, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, là anh em cùng cha khác mẹ. Cầm đến nhà ông Cầm Bá Y, sinh năm 1963 ở cùng thôn để làm đám tang cho mẹ của ông Y. Đến khoảng 10h cùng ngày, mọi người đã ăn uống xong xuôi, lúc này Cầm Bá X có biểu hiện say rượu nên Cầm Ba có dấu hiệu say. T nói "Mày về đi tao về" thì anh X bảo "hôm nay ai say thì tự về mà lấy", thấy anh X nói nhiều và đi lại quanh phòng nên T. T nói: Cầm Bá Y sân bãi, nên Cầm Bá Thành đi dạo. trước mặt Cầm Bá X đang đứng liên tục nói “về đi, đừng mè nheo nữa” và đưa tay phải ra đẩy vào ngực anh X, mục đích là để anh X về nhà, nhưng do anh Xuân đã đang uống rượu, anh loạng choạng lùi về phía sau, vấp phải phần sân bên phải khiến anh ngã ngửa ra sau, đầu đập xuống nền bê tông. Thấy anh X bị ngã, anh Cầm Bá Y chạy đến đỡ anh dậy. Phát hiện phía sau đầu anh X. chảy nhiều máu nên anh Cầm Bá T, Cầm Bá D, Cầm Bá T đến sơ cứu và đưa anh X về nhà. Sau khi đưa anh X về nhà, Cầm Bá T bảo vợ là chị Vi Thị K, sinh năm 1982 đến chữa trị vết thương cho anh Cầm Bá X. Đến khoảng 9 giờ ngày 29/01/2021, chị Cầm Thị T , sinh năm 1981, là em gái của anh Cầm Bá T, chị Vi Thị T mang cơm đến cho anh Cầm Bá X thì thấy anh X nằm trên giường, chân ướt đẫm mồ hôi, kêu lạnh, cơ thể yếu ớt nên chị đã gọi điện cho anh Cầm. Sau đó, Cầm Bá T cùng với chị Cầm Thị T đưa ông Cầm Bá X đến Bệnh viện Đa khoa huyện Thường Xuân cấp cứu và chuyển lên Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa để phẫu thuật sọ não lấy máu tụ dưới màng cứng. Ngày 14 tháng 12 năm 2021, anh được điều trị tại Bệnh viện phục hồi chức năng thành phố Sầm Sơn. Ngày 28/4/2021, do vết thương quá nặng, ông Cầm Bá X được chuyển ra Bệnh viện Việt Đức Hà Nội để tiến hành phẫu thuật ghép sọ, ngày 3/5/2021 ông được xuất viện và chuyển về bệnh viện gia đình điều trị. Gia đình và Bệnh viện Đa khoa huyện Thường Xuân đến ngày 21/6/2021 anh được xuất viện. Theo tường trình của đại diện gia đình nạn nhân, chi phí điều trị cho ông Cầm Bá X là 191.369.353 đồng (một trăm chín mươi mốt triệu ba trăm sáu mươi chín nghìn ba trăm năm mươi ba đồng).
Ngày 2/2/2021, gia đình ông Cầm Bá X đến Công an thị trấn T1, huyện Thường Xuân trình báo sự việc. Trong quá trình điều tra, Cầm Bá T khai nhận, mục đích giang tay đẩy ông Cầm Bá X là để ông X về nhà chứ không phải để quấy rối nhà ông Cầm Bá Y. Cầm Bá T và Cầm Bá X là anh em, không có mâu thuẫn trong cuộc sống.
Tại biên bản làm việc lập ngày 05/02/2021, bác sĩ Bệnh viện Đa khoa huyện Thường Xuân xác định: Vào khoảng 12h ngày 29/01/2021, anh Cầm Bá X, sinh năm 1971, trú tại thôn TL, xã T1., huyện Thường Xuân được người dân chuyển đến Bệnh viện Đa khoa huyện Thường Xuân cấp cứu. Khi bệnh nhân nhập viện, không phát hiện tổn thương trên cơ thể. Người bệnh lơ mơ, không tỉnh táo. Kết quả chụp não: tụ máu dưới màng cứng, xuất huyết não.
Trong bản tóm tắt bệnh án của Bệnh viện Đa khoa huyện Thường Xuân ngày 10/3/2021 xác định “Bệnh nhân vào viện ngày 29/01/2021, diễn biến bệnh và lâm sàng: trước đó 1 ngày bệnh nhân có sử dụng ma túy, rượu. , hiện có biểu hiện hôn mê, tay chân run, phải nhập viện”.
Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 10/02/2021 xác định: Tại khu vực sân gạch trước nhà và nền bê tông cũ cạnh sân gạch trước nhà của ông Cầm Bá Y, sinh năm 1963, ở thôn TL, thị trấn T1, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Nơi anh Cầm Bá X ngã xuống là khi anh này đập vỡ nền bê tông cạnh sân gạch trước nhà anh Cầm Bá Y.
Ngày 11/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra ra Quyết định trưng cầu giám định số 29/CSĐT; Số 30/CSĐT yêu cầu Trung tâm Pháp y tỉnh Thanh Hóa giám định tỷ lệ tổn hại cơ thể do thương tích; đánh giá cơ chế hình thành tổn thương Cầm Ba X. Biên bản giám định pháp y về thương tích số 185/2021/TTPY ngày 18/3/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa kết luận: “Tại thời điểm giám định pháp y về thương tích, tổng tỷ lệ phần trăm tổn hại cơ thể do thương tích gây ra đối với Cẩm Ba X là 89%.
Sau khi Giám định pháp y về cơ chế hình thành số 186/2021/TTPY ngày 18/3/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa kết luận: “Chấn thương sọ não do tác động của ngoại lực; tạo một đối tượng hoặc một đối tượng có cạnh. Gây tổn thương tụ máu dưới màng cứng bán cầu não phải, dập não. đã được xử lý ; hiện tại di chứng liệt nửa người bên phải nặng; hình ảnh khuyết sọ vùng thái dương bên phải, đường kính lớn nhất của khuyết khoảng 103 mm, đáy khuyết gợn sóng, sẹo nội khí quản vùng trên xương ức, sẹo mổ do điều trị chấn thương sọ não vùng trán. chấn thương. sườn núi đến ngôi đền bên phải."
Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, người bị hại yêu cầu bồi thường tiền thuốc với số tiền là 191.369.353 đồng (một trăm chín mươi mốt triệu ba trăm sáu mươi chín ngàn ba trăm năm mươi ba đồng). Ngày 09/9/2021, ông Cầm Bá D là người đại diện hợp pháp của ông Cầm Bá X có đơn yêu cầu bị cáo Cầm Bá T bồi thường chi phí điều trị thương tật và các chi phí khác là: 431.916.000 đồng, cộng chính xác là:
1. Chi phí nằm viện điều trị tại bệnh viện = 78.133.346 đồng.
2. Thuốc mua theo đơn điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa = 25.902.000 đồng.
3. Tiền xe đưa đón trong suốt đợt điều trị = 19.050.000đ 4. Tiền ăn = 19.320.000đ.
5. Chi khác mua sắm vật dụng cá nhân = 44.514.000đ 6. Tiền bồi thường thiệt hại về sức khoẻ, tinh thần, tuổi thọ, công chăm sóc: 233.000đ (trong đó; Lương người chăm sóc: 12.000.000đ x 6 tháng = 72.000.000đ; Tiền bồi thường thiệt hại về sức khoẻ , tinh thần và giáo dục của nạn nhân = 161.000.000 đồng). 7. Vệ sinh phục hồi chức năng: 12.000.000 đồng. Tổng cộng: 431.916.000 VNĐ. Trong thời gian Cầm Bá Xuân điều trị tại Bệnh viện T Cầm Bá Xuân, ông đã được bồi thường số tiền là 20.000.000 đồng. Số tiền còn lại phải nộp: 411.916.000đ.
Tại Bản cáo trạng số 41/CT-VKSTX ngày 16/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thường Xuân truy tố Cầm Bá T về tội “Vô ý gây thương tích” theo điểm b khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của Cầm Bá T phạm tội “Vô ý gây thương tích ”, bị cáo đã “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”; “phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”; “tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả” cho người bị hại số tiền 20.000.000đồng, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đã tự nguyện bồi thường số tiền 100.000.000đồng nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 138; điểm i, s, b khoản 1, Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Cầm Bá T 15 (mười lăm) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 (ba mươi) tháng đến 36 (ba sáu) tháng.
Về phần bồi thường dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự ; Điều 584; Điều 585; Điều 586; Điều 590 Bộ luật Dân sự buộc Cầm Bá T phải bồi thường cho Cầm Bá X các khoản chi phí hợp lý cho việc cứu chữa tổng số tiền là: 220.000.000đồng đến 230.000.000đồng, trừ đi số tiền đã bồi thường 120.000.000đồng, còn phải bồi thường từ 100.000.000đồng đến 110.000.000đồng.
Ngoài ra buộc bị cáo phải tiền trợ cấp hàng tháng cho người bị hại do mất khả năng lao động từ 900.000đồng đến 1.200.000đồng/tháng; Tiền công chăm sóc bị hại từ 500.000đồng đến 700.000đ/tháng, cộng hai khoản là 1.400.000đồng đến 1.900.000đồng, kể từ tháng 10/2021 cho đến khi người bị hại chết. Về án phí hình sự, dân sự theo quy định của pháp luật.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại có quan điểm: Đề nghị cơ quan tố tụng làm rõ lời khai của người làm chứng Cầm Bá T, Lương Thị C đã khai trước đó; Bị cáo Cầm Bá Thành tát nạn nhân Cầm Bá X trước nên cấu thành tội cố ý gây thương tích. Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 85; Điểm a khoản 2 Điều 245 BLTTDS quy định về trả hồ sơ điều tra bổ sung. Về bồi thường dân sự: Đồng ý với quan điểm của Viện Kiểm sát.
Bị cáo nhận tội và không tranh luận với đại diện cơ quan công tố. Người đại diện hợp pháp của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Tranh luận với VKS để làm rõ lời khai của người làm chứng là bà Lương Thị Chung, ông Cầm Bá T. Bị can Cầm Bá T có hành vi cố ý gây thương tích đến Cẩm Ba X.
Bên trả lời của Viện kiểm sát: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ, kết quả xét hỏi và nhận tội tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã làm rõ lời khai của người làm chứng đúng như nội dung ghi lời khai. lời khai của bà Lương Thị C, ông Cầm Bá Cụ; Kết quả đối chất xác định Cầm Bá T chỉ đẩy hoặc xô ông Cầm Bá X một lần. Về phần nhân chứng Cầm Bá T, trong quá trình điều tra và tại tòa, Cầm Bá T khẳng định không trực tiếp nhìn thấy bị cáo T tát X, việc T nói qua điện thoại với Cầm Bá D là Cầm Bá T tát Cầm Bá X. là suy đoán của bản thân T. Viện kiểm sát cho rằng bị cáo Cầm Bá T phạm tội “vô ý gây thương tích” theo điểm b khoản 2 điều 138 Bộ luật hình sự. Trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các thành viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Thủ tục tố tụng.
NHẬN XÉT CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào nội dung vụ án và các tang vật đã được xem xét, xem xét và thảo luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[Đầu tiên]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thường Xuân, Điều tra viên, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Thường Xuân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự . Trong quá trình điều tra, bị cáo và người bị hại không có ý kiến, khiếu nại đối với các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là đúng quy định của pháp luật. [2]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo: lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trước cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại và người làm chứng. phù hợp với nội dung kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 10 giờ ngày 28/01/2021, tại nhà ông Cầm Bá Yên tại thôn TL, xã T1. Tại huyện Thường Xuân, Cầm Bá T thấy anh Cầm Bá X là anh T có biểu hiện say xỉn nên dùng tay phải đẩy vào ngực anh X để anh X về nhà nhưng do đã uống rượu nên anh X. X giật lùi, vấp phải phần sân bên phải khiến anh ngã về phía sau, đầu đập xuống nền bê tông dẫn đến thương tích với tỷ lệ tổn hại sức khỏe là 89 (tám chín)%. Hành vi của bị cáo gây mất trật tự, an toàn xã hội, gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người khác đã cấu thành tội “vô ý gây thương tích” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 138 BLHS. 2015. Cáo trạng của Viện KSND TX.Thuận An đối với các bị cáo là chính xác và có cơ sở.
[3]. Xét tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo: vụ án là tội phạm ít nghiêm trọng, nhưng hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của người khác. được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, cần xử lý nghiêm để răn đe, phòng ngừa chung.
[4]. Xét về tính cách; Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; Tình tiết tăng nặng: không.
Các tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, xét xử bị cáo “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”; “phạm tội lần đầu trong trường hợp ít nghiêm trọng”, nhận thức pháp luật còn hạn chế. Sau khi gây thiệt hại cho người bị hại, bị cáo đã tự nguyện bồi thường 20.000.000 đồng, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử bị cáo có yêu cầu tự nguyện bồi thường thiệt hại và khắc phục hậu quả số tiền 100.000.000 đồng là đúng quy định của pháp luật. 003298 ngày 21/9/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự TX.Thuận An nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm i, s, b khoản 1, điều 51 BLHS.
[5]. Về áp dụng hình phạt: Căn cứ vào các lý do trên nên áp dụng điểm b khoản 2 Điều 138 và các điểm i, s, b khoản 1 Điều 51 BLHS. Xét bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và có nguyện vọng về địa phương tái hòa nhập nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời hạn mà áp dụng khoản 1 và khoản 2 Điều 65 BLHS Nếu cho bị cáo được hưởng án treo thì giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách mà vẫn có đủ cơ sở để cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội. Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các quy định của pháp luật để tuyên phạt bị cáo mức án phù hợp với tính chất vụ án, tội danh để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật. của bị cáo Cầm Bá T: Xin lỗi ông Cầm BáX; xin hội đồng xét xử giảm án. [6] Về bồi thường dân sự: Người bị hại, đại diện hợp pháp của người bị hại yêu cầu bồi thường số tiền: 431.916.000 đồng, người bị hại đã nhận số tiền 20.000.000 đồng, trừ đi số tiền đã nhận. Người bị hại, đại diện hợp pháp của người bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường bổ sung: 411.916.000 đồng.
Trong quá trình xét xử bị cáo và người bị hại, đại diện hợp pháp của người bị hại không thống nhất được với nhau về số tiền và mức bồi thường. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do người bị hại giao nộp, người đại diện hợp pháp của người bị hại sẽ giao nộp. Xét điều 48 bộ luật hình sự; Mục 584; Mục 585; Mục 586; điều 590 bộ luật dân sự; Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 hướng dẫn về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Hội đồng xét xử yêu cầu Cầm Bá T phải bồi thường cho Cầm Bá X số tiền sau:
Theo hồ sơ bệnh án, Cầm Bá X đã điều trị từ ngày 29/01/2021 đến ngày 21/06/2021 tại các bệnh viện với tổng thời gian là 143 ngày, chi phí thực tế được tính như sau:
Chi phí nằm viện: 66.584.146 đồng, trong đó: BHYT thanh toán: 44.552.573 đồng; người bệnh thanh toán là: 22.031.573 đồng, (chấp nhận người bệnh thanh toán số tiền: 22.031.573 đồng).
Chi phí thuốc kê đơn: 25.902.000đ.
Chi phí xe cho buổi điều trị lần 1 và lần 2: 9.000.000 vnđ.
Thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại trong 143 ngày x 200.000 đồng/ngày: 28.600.000 đồng.
Chi phí khác nằm viện (mua đồ dùng cá nhân): 143 ngày x 100.000đ/ngày: 14.300.000đ. Thu nhập thực tế của người chăm sóc bị giảm sút là 143 ngày 90 ngày phục hồi = 223 ngày x 200.000 đồng/ngày: 44.600.000 đồng Chi phí phục hồi: 12.000.000 đồng Chi phí phục hồi tinh thần 45 tháng lương cơ sở x 1.490.000 đồng/tháng: 67.050.000 đồng. Tổng cộng: 223.483.573 VNĐ.
Ngoài ra, bị cáo còn phải trợ cấp hàng tháng cho người bị hại: Trợ cấp hàng tháng cho người bị thiệt hại do mất khả năng lao động: 900.000 đồng/tháng; Chi phí gửi trẻ: 500.000đ/tháng. Tổng hai khoản là: 1.400.000 đồng/tháng, tính từ tháng 10/2021 cho đến khi nạn nhân tử vong.
Trong quá trình điều tra, bị cáo Cầm Bá T đã bồi thường cho người bị hại Cầm Bá X 20.000.000 đồng. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Bị cáo T đã tự nguyện bồi thường và khắc phục một phần hậu quả với số tiền là 100.000.000 đồng theo quy định của pháp luật. Ngày 21/9/2021 từ Chi cục thi hành án dân sự TX, tổng số tiền bị cáo đã tự nguyện nộp lại là 120.000.000 đồng, trừ vào số tiền bị cáo phải bồi thường, bị cáo Cầm Bá Thành còn phải bồi thường cho Cẩm Ba X 103.483.573 VNĐ. [7]. Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thường Xuân trong phiên tòa và đề nghị Hội đồng xét xử xác định bị cáo phạm tội “vô ý gây thương tích” để đề nghị mức hình phạt, mức bồi thường dân sự và án phí là có cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử đã đồng ý.
[8] Về quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, hội đồng xét xử đề nghị hội đồng xét xử làm rõ lời khai của người làm chứng và yêu cầu trả hồ sơ bổ sung là không có căn cứ nên tuyên án. hình thành không được chấp nhận. Không có bình luận về bồi thường.
[9]. Về án phí: Bị cáo chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì những lý do trên,
PHÁN QUYẾT
Theo điểm b khoản 2 điều 138; tiết i, s, b khoản 1 Điều 51; Điều 65 BLHS;
Tuyên bố: Cầm Bá T phạm tội “vô ý gây thương tích” Hình phạt: Cầm Bá T 15 (mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử việc là 30 (ba mươi) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (29 tháng 9 năm 2021). Giao bị cáo cho UBND xã Tân Thành, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. “Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ của mình từ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành thời hạn phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.” . Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì áp dụng quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 BLHS; Mục 584; Mục 585; Mục 586; Điều 590 BLDS. Buộc Cầm Bá T phải bồi thường cho Cầm Bá Xuân số tiền thuốc men, chi phí hợp lý cho việc cứu chữa thương tật, số tiền tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm là 45 tháng lương cơ sở. Tổng cộng: 223.483.573 VNĐ (hai trăm hai mươi ba triệu bốn trăm tám mươi ba nghìn năm trăm bảy mươi ba đồng). Cầm Bá T bồi thường cho Cầm Bá X 20.000.000 đồng; Cầm Bá T đã tự nguyện giao nộp số tiền 100.000.000 đồng theo giấy nộp tiền số Thu hồi số tiền 120.000.000 đồng trừ đi số tiền tự nguyện bồi thường, Cầm Bá T còn phải bồi thường cho Cầm Bá X: 103.483.573 đồng (một trăm ba triệu bốn trăm tám mươi) ba nghìn năm trăm bảy mươi ba đồng).
Ngoài ra, Cầm Bá Thành còn phải trợ cấp hàng tháng cho Cầm Bá X do mất khả năng lao động: 900.000 đồng/tháng Tiền gửi con: 500.000 đồng/tháng. Tổng hai khoản là: 1.400.000 đồng/tháng, tính từ tháng 10/2021 cho đến khi nạn nhân tử vong.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi chấp hành xong các khoản tiền thì hàng tháng người phải thi hành án phải chịu tiền lãi đối với số tiền chậm thi hành án tương ứng với thời hạn thi hành án được hoãn theo quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
Về án phí: căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; Tiết a Khoản 1 Điều 23 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “Quy định mức thu hồi, miễn, giảm, thu hồi, nộp, quản lý và sử dụng án phí Chi phí và Chi phí Phán quyết”. Buộc Cầm Bá T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 5.174.000 đồng án phí dân sự.
Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (29/9/2021).
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Mục 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự và người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án, quyền yêu cầu việc thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự ; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nội dung bài viết:
Bình luận