Bài viết này tập trung làm rõ bản chất của chính sách tài khóa (CSTK) và chính sách tiền tệ (CSTT), những tác động của hai chính sách này đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát, qua đó làm rõ mối quan hệ tương tác giữa hai chính sách hướng tới sự phát triển bền vững; đưa ra những vấn đề cần thực hiện để đảm bảo tính tương tác hiệu quả. Đây là vấn đề cần được quan tâm trong quá trình điều hành CSTK và CSTT của Việt Nam, theo đó cần phải dựa trên cơ sở khoa học để lựa chọn chính sách nào là chủ đạo và xác định liều lượng tác động của từng công cụ trong từng thời kỳ; đảm bảo đầy đủ các nguyên tắc nhất quán, đồng bộ, hỗ trợ và chia sẻ thông tin trên cơ sở lựa chọn các kỹ thuật thực hiện đảm bảo tính khoa học và thực tiễn hướng tới hiệu quả cao nhất trong công tác phối hợp giữa hai chính sách với nhau, nhất là trong việc quản lý nợ công.
1. Tổng quan về chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ là các chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng của mỗi quốc gia, trong đó mỗi chính sách theo đuổi một mục tiêu cụ thể và tuân thủ những quy luật riêng, song đều hướng tới mục đích ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế; đồng thời có mối quan hệ tương tác lẫn nhau cả trong ngắn và dài hạn.
Chính sách tài khóa là hệ thống các chính sách của Chính phủ về tài chính, được hoạch định và thực hiện trong một niên khóa tài chính, nhằm tác động đến các định hướng phát triển nền kinh tế, thông qua những thay đổi trong các khoản chi tiêu và thu qua thuế, phí của Nhà nước. Chính sách thuế thể hiện quan điểm, cơ chế và phương thức huy động các nguồn tài chính hình thành NSNN, các quỹ tài chính nhà nước tập trung để thực hiện các khoản chi NSNN trong từng thời kỳ.
Chi tiêu tài khóa có tác động trực tiếp đến tổng cầu và thông qua số nhân, có tác động lớn hơn đến sản lượng và việc làm. Thuế thay đổi thu nhập khả dụng và tiêu dùng, ảnh hưởng đến giá cả và sản xuất. Thuế cũng làm hạn chế vai trò của số nhân trong quá trình khuếch tán tác động của các bộ phận cấu thành tổng cầu. Sản xuất sẽ thay đổi ít hơn nếu không có thuế thu nhập. Theo nghĩa này, thuế (dựa trên thu nhập) hoạt động như một "van" tự động ổn định. Tuy nhiên, việc áp dụng các công cụ CSTK không hề đơn giản. Tác động của chi tiêu công còn phụ thuộc vào khả năng cung ứng tổng hợp. Nếu tổng cung không đáp ứng nhu cầu gia tăng thông qua mở rộng tài khóa, lạm phát có thể tăng lên; Điều này thậm chí còn đúng hơn khi thâm hụt ngân sách được bù đắp bằng cách phát hành tiền, thay vì vay bên ngoài và/hoặc trong nước bằng cách phát hành trái phiếu.
Ngay khi nguồn cung có thể được đáp ứng, tác động của những thay đổi trong chi tiêu ngân sách phụ thuộc vào thị trường tài chính và tiền tệ. Tác động mạnh nhất khi nền kinh tế ở trạng thái “bẫy thanh khoản”, tức là khi công chúng sẵn sàng nắm giữ bất kỳ lượng cung tiền nào. Ngoài ra, mở rộng tài khóa còn làm tăng lãi suất, giảm đầu tư tư nhân, hạn chế nhiều hệ lụy đo lường mở rộng tài khóa, chưa kể có thể làm giảm cung trong dài hạn. Hiện tượng thu hẹp đầu tư tư nhân thường được coi là nguyên nhân quan trọng để tăng chi tiêu tài khóa cho cơ sở hạ tầng, từ đó tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho khu vực tư nhân.
Hơn nữa, việc giảm thuế chỉ được coi là hành động tạm thời của Nhà nước; Thâm hụt ngân sách ngày nay được trang trải bằng vay mượn, đó là dấu hiệu tăng thuế để trả nợ trong tương lai. Do đó, cắt giảm thuế chỉ là tiết kiệm cắt giảm thuế, với tác động không đáng kể đối với thu nhập và tiêu dùng thường xuyên (giả thuyết Barro-Ricardo). Chính sách tiền tệ về cơ bản là tập hợp các biện pháp và công cụ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) nhằm chi phối, điều tiết quá trình cung ứng tiền tệ, lãi suất và tín dụng, tức là kiểm soát dòng tiền và khối lượng tiền để đạt mục tiêu mục tiêu. mục tiêu điều hành kinh tế vĩ mô. Việc nới lỏng chính sách tiền tệ sẽ làm tăng cung tiền, giảm lãi suất bằng cách thúc đẩy đầu tư, tăng tổng cầu và có thể làm tăng lạm phát, vì quá nhiều tiền sẽ làm tăng sản lượng tiềm năng. Ngược lại, chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ có tác động làm giảm tổng cầu, từ đó kiềm chế lạm phát. Chính sách tiền tệ tác động đến các biến số mục tiêu vĩ mô thông qua những thay đổi trong cung tiền và lãi suất. Cung tiền nói chung chỉ gián tiếp điều chỉnh tổng cầu bằng cách truyền thông qua những thay đổi về lãi suất để tái cân bằng thị trường tiền tệ bằng cách điều chỉnh lựa chọn tài sản tài chính. Trong trạng thái “bẫy thanh khoản”, chính sách tiền tệ hầu như không ảnh hưởng đến lãi suất cũng như sản lượng, thu nhập và việc làm. Giống như chính sách tiền tệ, tác động của chính sách tiền tệ cũng phụ thuộc vào khả năng đáp ứng của tổng cung và mối quan hệ giữa cung tiền, lãi suất và lạm phát.
2. Tương tác giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
Trong ngắn hạn, chính sách tiền tệ có tác động qua lại, tác động trực tiếp và gián tiếp đến các nhân tố cơ chế truyền dẫn của chính sách tiền tệ. Chính sách tiết kiệm tác động trực tiếp và gián tiếp đến tổng cầu của nền kinh tế thông qua các quyết định về thu nhập, chi tiêu hoặc tác động đến lãi suất1. Điều này ảnh hưởng đến tiền lương và giá cả, từ đó ảnh hưởng đến lạm phát và kỳ vọng lạm phát2. Về mặt lý thuyết, chính sách tiền tệ có tác động đến các kênh truyền dẫn của chính sách tiền tệ, nhưng trên thực tế rất khó định lượng tác động này trong ngắn hạn.
Trong dài hạn, chính sách tiền tệ có thể ảnh hưởng đến sự ổn định lâu dài của chính sách tiền tệ. Nếu áp dụng một chính sách tài khóa thiếu bền vững trong thời gian dài sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu của chính sách tiền tệ. Kỳ vọng về thâm hụt ngân sách lớn và dai dẳng kết hợp với nhu cầu nợ công lớn có thể làm giảm niềm tin vào nền kinh tế và tạo ra rủi ro cho sự ổn định của thị trường tài chính. Thiếu niềm tin vào khả năng tài chính của chính phủ có thể trở thành nhân tố tiềm ẩn dẫn đến sự bất ổn của thị trường trái phiếu và ngoại hối, thậm chí là sự sụp đổ của cơ chế tiền tệ. Ngoài ra, chính sách tài khóa còn tác động đến dòng vốn quốc tế, từ đó ảnh hưởng đến khả năng kiểm soát dòng ngoại tệ ra vào trong nước của NHNN, gây rủi ro cho hệ thống tài chính. Chính sách tài khóa yếu kém về thu chi trong lĩnh vực xây dựng sẽ tác động tiêu cực đến quá trình phân bổ nguồn lực, làm gia tăng rủi ro liên quan đến dòng vốn quốc tế.
Đồng thời, chính sách tiền tệ cũng có một số ảnh hưởng đến chính sách tài khóa. Chính sách tiền tệ có mục tiêu trung hạn là ổn định giá cả, giá trị đồng tiền và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế thông qua kiểm soát lãi suất và cung tiền. CSTT thắt chặt sẽ làm giảm nhu cầu đầu tư, thu hẹp sản xuất, dẫn đến giảm nguồn thu ngân sách của Chính phủ; một sự tăng, giảm lãi suất từ CSTT sẽ ảnh hưởng đến giá trái phiếu chính phủ (TPCP), điều đó cũng ảnh hưởng đến cân đối ngân sách; sự gia tăng tỷ giá (đồng bản tệ giảm) sẽ làm gia tăng khoản nợ chính phủ bằng đồng ngoại tệ quy đổi.
Từ những phân tích trên có thể thấy rằng, CSTT và CSTK phụ thuộc lẫn nhau, thay đổi của chính sách nào cũng sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách kia. Hơn nữa, trong thực tế, hai chính sách này lại do hai cơ quan khác nhau điều hành, vấn đề đặt ra là cần đảm bảo sự tương tác hiệu quả giữa hai chính sách này hướng tới sự phát triển bền vững của nền kinh tế, tức là phải có sự phối hợp trong điều hành CSTT và CSTK giữa NHNN và Bộ Tài chính.
Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, để đảm bảo sự tương tác hiệu quả giữa CSTK và CSTT nhằm hướng tới sự phát triển bền vững của nền kinh tế thì các nguyên tắc cơ bản về sự phối hợp giữa hai chính sách này trong quá trình thực thi cần được đảm bảo tuân thủ ba nguyên tắc cơ bản: (i) Cần có sự nhất quán về mục tiêu chính sách nhằm đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô là lạm phát ổn định, tăng trưởng bền vững và tạo công ăn việc làm cao; (ii) Trong quá trình thực thi, cần tạo sự đồng bộ, bổ sung cho nhau; (iii) Hỗ trợ và chia sẻ thông tin, thực hiện hiệu quả các quyết định chính sách nhằm đạt được mục tiêu đề ra, đảm bảo tính bền vững của các chính sách.
Trong thực tế áp dụng, vấn đề luôn phải lưu ý đó là, CSTK thường ngay lập tức làm thay đổi tổng cầu, theo đó tác động đến thu nhập và sản lượng nhanh hơn CSTT (độ trễ bên ngoài ngắn hơn). Tuy nhiên, độ trễ bên trong của CSTK lại thường kéo dài hơn so với CSTT. Thêm vào đó, CSTK là chính sách cứng, do được thực hiện theo kế hoạch của Quốc hội phê chuẩn, còn CSTT là chính sách linh hoạt; nếu tận dụng tốt những đặc tính này, có thể tạo ra sự tương tác hiệu quả hơn. Thông thường các nước sẽ thực hiện đầy đủ các nguyên tắc cơ bản trên, tuy nhiên mỗi quốc gia có thể linh hoạt xác định cách thức thực hiện phù hợp với thực trạng của nền kinh tế.
Nhìn lại việc điều hành CSTK và CSTT của Việt Nam từ năm 2007 - 2017 cho thấy, cả ba nguyên tắc trên được thể hiện khá đầy đủ, trong đó nổi bật là sự nhất quán cao về mặt mục tiêu thực hiện thông qua chỉ đạo của Chính phủ trong thời kỳ nền kinh tế phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng, được cụ thể hóa tại Nghị quyết số 10/2008/NQ-CP ngày 17/4/2008 của Chính phủ đưa ra 8 nhóm giải pháp đồng bộ để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững; Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ về những giải pháp cấp bách ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 09/01/2009 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2009; Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội; Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2017 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2017. Theo các nghị quyết này, khi cần kiểm soát lạm phát thì CSTT và CSTK thực hiện thắt chặt, khi chống suy giảm kinh tế thì CSTT và CSTK cùng thực hiện nới lỏng, song những gì diễn ra từ năm 2011 đến nay cho thấy, những tác động trễ và cộng hưởng của hai chính sách này đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát thì ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế/ngược lại đạt được mục tiêu chống suy giảm kinh tế (năm 2009) thì dẫn đến lạm phát. Vì vậy, để tránh những tác động ngược của “hậu chính sách”, cần tăng cường sự tương tác, bổ sung cho nhau của hai chính sách khi cùng thực hiện mục tiêu chung là ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. tạo việc làm cao thông qua việc lựa chọn các phương thức điều phối dựa trên các lý thuyết kinh tế cơ bản, phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế trong từng thời kỳ.
3. Những vấn đề cần cân nhắc để đảm bảo sự tương tác hiệu quả giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
(i) Việc quyết định lựa chọn CSTK hay CSTT là công cụ tác động mạnh nhất đến tổng cầu hay mức độ tác động của từng công cụ đến tổng cầu là hợp lý trong từng hoàn cảnh kinh tế cụ thể phải dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn tranh luận. Thực tế vận hành cho thấy, tương tác chỉ phát huy tác dụng khi xác định đúng liều lượng trong cơ chế hiệp đồng. Tuy nhiên, đây lại là một điểm yếu trong điều phối chính sách của Việt Nam. Chẳng hạn, để không ảnh hưởng đến suy giảm tổng cầu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chính sách tài khóa cần có biện pháp mạnh để giải ngân các công trình xây dựng cơ bản, đẩy nhanh chi tiêu tài khóa trong kế hoạch. Trong 6 tháng đầu năm 2017, trên cơ sở tiền gửi của Nhà nước tại NHNN tăng mạnh, có vẻ như mức chi tiêu của khu vực công đã giảm, chủ yếu do các công trình xây dựng cơ bản chưa giải ngân được trong khi chính sách tiền tệ có nhiều nỗ lực trong việc giảm lãi suất. tăng đối tượng cho vay... điều này có thể ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng và tiềm ẩn rủi ro lạm phát trong tương lai. Hơn nữa, độ trễ của chính sách tiền tệ có tác động chậm hơn đến sản lượng so với chính sách tiền tệ. Vì vậy, có thể thấy, việc vận dụng tác động qua lại của hai chính sách này trong quá trình vận hành còn hạn chế, ở một khía cạnh nào đó gây lãng phí nguồn vốn xã hội nói chung và ngân sách nhà nước nói riêng.
(ii) Cơ chế trao đổi thông tin và hỗ trợ vận hành CSTT và CSTT cần có sự phối hợp nhanh chóng, nhịp nhàng, khai thác triệt để những đặc thù riêng của từng chính sách. Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ là kiểm soát mức cung tiền và lãi suất của nền kinh tế, trong khi thu và chi của chính phủ có tác động trực tiếp đến mức cung tiền và lãi suất. Rà soát bảng cân đối tiền tệ cho thấy, hoạt động thu chi của Chính phủ được phản ánh rõ nét qua các giao dịch trên tài khoản Kho bạc mở tại Ngân hàng Nhà nước hoặc mở tại các ngân hàng thương mại. Tiền gửi của Chính phủ tại NHNN là một bộ phận cấu thành quan trọng của cơ sở tiền tệ3 nên nó cũng là một bộ phận quan trọng làm thay đổi cung tiền M2 trong nền kinh tế. Trong thời kỳ chính phủ có thu nhập và chi tiêu cao, việc chuyển tiền song phương vào tài khoản của chính phủ tại NHNN có thể gây ra biến động về đồng tiền yết giá của NHNN. Thực tế tại Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển khác, sự biến động của tiền gửi kho bạc có thời điểm tăng cao làm giảm đáng kể nguồn vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng lãi suất liên ngân hàng. Ngược lại, nó còn có thể làm tăng đáng kể nguồn vốn khả dụng và giảm lãi suất liên ngân hàng. Điều này gây áp lực nhất định lên việc kiểm soát cung tiền của NHNN trong điều hành chính sách tiền tệ. Đặc biệt ở những nước mà một phần tiền gửi của Kho bạc được gửi vào các ngân hàng thương mại thì việc kiểm soát cung tiền và lãi suất của Ngân hàng Nhà nước càng khó khăn hơn. Vì vậy, các khoản thu chi ngân sách quan trọng ảnh hưởng đến dòng tiền cần được thông báo trước cho NHNN để điều chỉnh dòng tiền phù hợp với mục tiêu hoạt động.
(iii) Việc phối hợp giữa tài trợ thâm hụt ngân sách và quản lý nợ công là vô cùng quan trọng để đảm bảo tính tương tác hiệu quả của hai chính sách. Một liều thuốc hợp lý để bù đắp thâm hụt ngân sách của hệ thống ngân hàng (gồm NHNN - phát hành tiền, NHTM), vốn vay nước ngoài sẽ hỗ trợ và mang lại hiệu quả nhất định cho việc thực thi CSTK, CSTT. Để đảm bảo sự phối hợp tốt trong việc tài trợ này, thông thường hàng năm các quốc gia phải đưa ra chương trình tài chính quốc gia, bao gồm các giải pháp đồng bộ vĩ mô, nhằm thực hiện kế hoạch định lượng về các chỉ tiêu mục tiêu vĩ mô chủ yếu. Đặc biệt, chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đã được phối hợp đồng bộ từ khâu hoạch định đến tổ chức thực hiện, đảm bảo khả năng bù đắp thâm hụt tài khóa của hệ thống ngân hàng ở mức hợp lý.
Giữa NHNN và Bộ Tài chính, bên cạnh sự phối hợp để xác định mức bù đắp bội chi NSNN của hệ thống là bao nhiêu, các lĩnh vực khác (trong và ngoài nước) bao nhiêu, cần có sự phối hợp trong việc phát triển thị trường trái phiếu. - cơ sở hạ tầng quan trọng để quản lý nợ công. Nếu thị trường trái phiếu mở rộng thì tính thanh khoản của TPCP sẽ cao, từ đó thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi từ các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Đồng thời, thị trường TPCP là nơi tạo ra mức lãi suất chuẩn dài hạn cho thị trường tài chính, bởi mức lãi suất này không chứa đựng các yếu tố rủi ro. Trên thị trường này, vai trò của NHNN rất quan trọng, giúp tăng tính thanh khoản cho thị trường. Trái phiếu chính phủ là một phương tiện quan trọng để Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ, thông qua hoạt động mua, bán trái phiếu chính phủ mà Ngân hàng Nhà nước tác động mạnh, thậm chí chi phối giá trái phiếu trên thị trường. Tín hiệu thắt chặt hay nới lỏng chính sách tiền tệ cũng tác động đáng kể đến giá trái phiếu chính phủ.
Đối với Việt Nam hiện nay, thị trường TPCP chưa phát triển mạnh như các nước, điều này cho thấy thị trường TPCP chưa hình thành đường cong, lợi suất chuẩn, số lượng giao dịch trên thị trường thứ cấp thấp... Do đó, tác động của chính sách tiền tệ đến thị trường trái phiếu và giá trái phiếu chính phủ còn hạn chế. Tuy nhiên, hiện nay trái phiếu chính phủ là phương tiện chính để NHNN bơm/hút tiền ra khỏi nền kinh tế thông qua các công cụ chính sách tiền tệ, đặc biệt là thông qua nghiệp vụ thị trường mở, tạo thanh khoản cho trái phiếu chính phủ và hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng thương mại. Nhờ đó, trái phiếu chính phủ là kênh đầu tư an toàn và là danh mục hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng thương mại. Lượng trái phiếu các ngân hàng thương mại mua tăng dần qua các năm. Việc các ngân hàng thương mại mua trái phiếu là điều kiện tốt để có thể huy động nguồn bù đắp bội chi ngân sách với chi phí thấp hơn nhiều so với phát hành trái phiếu trực tiếp cho người dân. Mặt khác, mối quan hệ giữa lãi suất ngắn hạn và lãi suất trung dài hạn đặt ra mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất trái phiếu chính phủ và lãi suất điều hành của NHNN. Việc xác định lãi suất trái phiếu thị trường sơ cấp nếu không thống nhất với lãi suất chỉ đạo của NHNN sẽ dẫn đến khiếm khuyết trong việc hình thành giá cả các sản phẩm tài chính trên thị trường, làm méo mó lưu thông chuyển dịch của xã hội. thủ đô. Vì vậy, khi Bộ Tài chính xác định lãi suất trái phiếu Chính phủ cần tham khảo lãi suất chủ đạo của Ngân hàng Nhà nước. Thực tế, giữa NHNN và Bộ Tài chính đã có sự phối hợp trong việc hình thành lãi suất TPCP. Luật NHNN năm 1997 và 2010 cũng quy định trách nhiệm của NHNN tham gia với Bộ Tài chính trong việc phát hành trái phiếu Chính phủ và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước làm đại lý phát hành tín phiếu cho Bộ Tài chính, tham gia với Bộ Tài chính xác định mức lãi suất hợp lý cho trái phiếu. Tuy nhiên, lãi suất trái phiếu cũng phải có cơ chế phối hợp thường xuyên để xác định lãi suất trái phiếu, số lượng trái phiếu phát hành, đảm bảo tính nhất quán của lãi suất trên thị trường, tạo cơ sở tốt cho việc hình thành đường cong lợi suất chuẩn, cũng như hiệu quả trong quản lý nợ công và vai trò đại lý phát hành tín phiếu của Ngân hàng Nhà nước. Trong trường hợp cần thiết mà lượng tín phiếu không bán hết cho các NHTM, NHNN có thể mua vào để tạo công cụ can thiệp thị trường nếu cần thiết, đồng thời đáp ứng nhanh nguồn thu của chính phủ.
Trong cơ cấu nợ công, nợ nước ngoài có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng thanh toán của quốc gia, nợ nước ngoài quá nhiều sẽ khiến nền kinh tế quốc gia phụ thuộc nhiều vào kinh tế nước ngoài. Bài học của cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp vừa qua cho thấy các nước đang phát triển theo đuổi mục tiêu tăng trưởng nếu tiếp tục vay và sử dụng vốn vay kém hiệu quả chắc chắn sẽ để lại cho hệ thống tương lai một khoản nợ khổng lồ. Đối với Việt Nam, đất nước có nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì vay nợ nước ngoài là cần thiết, nhưng vay và sử dụng nguồn vốn vay này như thế nào cho hiệu quả là vấn đề cần quan tâm. Nhiều nước có nền kinh tế phát triển mạnh như Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc phải vay nợ nước ngoài. Tuy nhiên, chính phủ các nước này chỉ đi vay để đầu tư vào cơ sở hạ tầng quan trọng nhất đối với phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo... Những bài học này cho thấy, việc xây dựng chiến lược quốc gia về nợ nước ngoài để đảm bảo cân đối kinh tế vĩ mô có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam hiện nay, bởi mức độ nợ nước ngoài tăng, trong khi hiệu quả sử dụng vốn vay kém.
Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngoại hối và hoạt động ngoại hối; quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước; quản lý việc vay, trả nợ, cho vay và thu nợ nước ngoài theo quy định của pháp luật; chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc chuẩn bị nội dung, đàm phán, ký kết điều ước quốc tế với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế mà Ngân hàng Nhà nước là đại diện và là đại diện chính thức của nhà đầu tư nước ngoài. hoặc được Chủ tịch nước hoặc Chính phủ ủy quyền. Vì vậy, NHNN đóng vai trò quan trọng khi tham gia vào chiến lược quốc gia về quản lý nợ nước ngoài, trong đó có nợ công.
Trên quan điểm quản lý rủi ro nợ công, ổn định tiền tệ, đảm bảo giá trị đồng tiền quốc gia, hay không để đồng tiền quốc gia mất giá, đảm bảo cân đối cung cầu ngoại hối quốc gia, việc giảm đô la hóa có quan trọng không? không làm tăng nợ công tính theo đồng tiền quốc gia. Vấn đề này là trách nhiệm chung của các cấp, các ngành, trong đó Ngân hàng Nhà nước có vai trò quan trọng.
4. Kết thúc
Tác động qua lại giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa theo hướng có lợi cho phát triển bền vững là vấn đề cần quan tâm. Theo đó, việc điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa cần bảo đảm đầy đủ nguyên tắc thống nhất, đồng bộ, hỗ trợ và chia sẻ thông tin trên cơ sở lựa chọn tổ chức thực hiện. kỹ thuật bảo đảm tính khoa học, tính thực tiễn nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong việc phối hợp giữa hai chính sách, đặc biệt là trong quản lý nợ công. Thực tế, mặc dù Ngân hàng Nhà nước không phải là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong quản lý nợ công nhưng đã có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hiệu quả quản lý nợ công kể từ khi xây dựng chiến lược quản lý nợ công cho đến khi thực hiện chiến lược. NHNN tham vấn với Bộ Tài chính về các vấn đề liên quan đến biến động thị trường tiền tệ (như lãi suất, tình hình thanh khoản, diễn biến cung tiền); tham mưu xây dựng kế hoạch, chiến lược quản lý nợ công về cơ cấu nợ, cơ cấu chứng khoán, công cụ nợ, khối lượng và lãi suất, nguồn vay nợ ; làm đại lý phát hành tín phiếu Kho bạc và nhận tiền gửi Kho bạc; tạo thanh khoản cho thị trường trái phiếu chính phủ; bù đắp vốn tạm thời thiếu hụt cho thâm hụt ngân sách trong khuôn khổ chính sách tiền tệ.
Nội dung bài viết:
Bình luận