Tôn giáo là gì và tín ngưỡng là gì?

Trong bài viết này, Luật ACC sẽ giúp bạn đọc phân biệt thế nào là tín ngưỡng, tôn giáo, mê tín dị đoan và mối quan hệ giữa tín ngưỡng, tôn giáo và mê tín dị đoan, cụ thể

1. Khái niệm niềm tin

Theo quy định tại Khoản 1 Mục 2 Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2016 thì tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua các nghi lễ gắn với phong tục, tập quán truyền thống nhằm mang lại sự bình yên, lành mạnh cho cá nhân và cộng đồng.

2. khái niệm tôn giáo

Theo quy định tại Khoản 1 Mục 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016, tôn giáo là tín ngưỡng của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng thờ cúng, giáo lý, giáo luật, nghi lễ và tổ chức.

3. Khái niệm mê tín dị đoan

Mê tín dị đoan là niềm tin vào những điều nhảm nhí, mơ hồ, không có thật và trái với quy luật tự nhiên, xuất hiện chủ yếu trong lĩnh vực tâm linh và dẫn đến hậu quả xấu không chỉ cho cá nhân, gia đình mà còn cho cả cộng đồng về mặt sinh học. thời gian, tài sản, sức khỏe và thậm chí nguy hiểm đến tính mạng con người.
Mê tín dị đoan bao gồm một số hành vi như: đồng cốt, bà mụ, quá tin vào bói toán, xem tướng tay, tin vào ngày tốt, ngày xấu, kiêng kỵ các điều trong những ngày đó, tin vào vận may, cúng sao giải hạn. giải hạn, cúng kem, tin rằng cầu nguyện sẽ vượt qua tai nạn, chữa khỏi bệnh tật, tin vào bùa chú, bùa chú, v.v.

4. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Ở Việt Nam, để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, Điều 24 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, không theo một tôn giáo nào hoặc không theo một tôn giáo nào. Bình đẳng về tôn giáo trước pháp luật . Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thể hiện trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 18 tháng 11 năm 2016) và trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác. , đại diện bởi những điều sau đây:

- Việt Nam thừa nhận, thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật;

- Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.

- Mọi người đều có quyền bày tỏ niềm tin hoặc tôn giáo của mình; thực hành tín ngưỡng, nghi lễ tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý tôn giáo, giáo luật;

- Mọi người có quyền vào cơ sở tôn giáo, học tập tại cơ sở tôn giáo, bồi dưỡng của tổ chức tôn giáo. Người chưa thành niên khi vào cơ sở tôn giáo phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
đ
- Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành án phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo.

5. Sự giống nhau và khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng

5.1 Sự giống nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng

Một là, những người có tôn giáo (Phật giáo, Thiên chúa giáo, đạo Tin lành,…) và có sinh hoạt tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Mẫu,…) đều tin vào những điều mà tôn giáo đó và các loại hình tín ngưỡng đó truyền dạy, mặc dù họ không hề được trông thấy Chúa Trời, đức Phật hay cụ kỵ tổ tiên hiện hình ra bằng xương bằng thịt và cũng không được nghe bằng chính giọng nói của các đấng linh thiêng đó. Hai là, giữa tôn giáo và tín ngưỡng là những tín điều của tôn giáo và tín ngưỡng đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa các cá thể với nhau, giữa cá thể với xã hội, với cộng đồng, giải quyết tốt các mối quan hệ trong gia đình trên cơ sở giáo lý tôn giáo và noi theo tấm gương sáng của những đấng bậc được tôn thờ trong các tôn giáo, các loại hình tín ngưỡng đó.

5.2 Sự khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng

Một là, nếu tôn giáo phải có đủ 4 yếu tố cấu thành, đó là: giáo chủ, giáo lý, giáo luật và tín đồ, thì các loại hình tín ngưỡng dân gian không có 4 yếu tố đó. Giáo chủ là người sáng lập ra tôn giáo ấy (Thích ca Mâu ni sáng lập ra đạo Phật, đức chúa Giê su sáng lập ra đạo Công giáo, nhà tiên tri Mô ha mét sáng lập ra đạo Hồi,…); giáo lý là những lời dạy của đức giáo chủ đối với tín đồ; giáo luật là những điều luật do giáo hội soạn thảo và ban hành để duy trì nếp sống đạo trong tôn giáo đó; tín đồ là những người tự nguyện theo tôn giáo đó[1].
Hai là, nếu đối với tín đồ tôn giáo, một người, trong một thời điểm cụ thể, chỉ có thể có một tôn giáo thì một người dân có thể đồng thời sinh hoạt ở nhiều tín ngưỡng khác nhau. Chẳng hạn, người đàn ông vừa có tín ngưỡng thờ cụ kỵ tổ tiên, nhưng ngày mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng, ông ta còn ra đình lễ Thánh. Cũng tương tự như vậy, một người đàn bà vừa có tín ngưỡng thờ ông bà cha mẹ, nhưng ngày mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng còn ra miếu, ra chùa làm lễ Mẫu,…
Ba là, nếu các tôn giáo đều có hệ thống kinh điển đầy đủ, đồ sộ thì các loại hình tín ngưỡng chỉ có một số bài văn tế (đối với tín ngưỡng thờ thành hoàng), bài khấn (đối với tín ngưỡng thờ tổ tiên và thờ Mẫu). Hệ thống kinh điển của tôn giáo là những bộ kinh, luật, luận rất đồ sộ của Phật giáo; là bộ “Kinh thánh” và “Giáo luật” của đạo Công giáo; là bộ kinh “Qur’an” của Hồi giáo,… Còn các cuốn “Gia phả” của các dòng họ và những bài hát chầu văn mà những người cung văn hát trong các miếu thờ Mẫu không phải là kinh điển. Thứ tư, trong khi các tôn giáo đều có giáo sĩ hành đạo chuyên nghiệp và suốt đời theo nghề, thì không có ai thực hiện chuyên nghiệp như vậy trong sinh hoạt tôn giáo bình dân. Tu sĩ Phật giáo và giáo sĩ Công giáo đều là những người chuyên nghiệp và là những người thực hành suốt đời (có thể có một số trường hợp ngoại lệ, nhưng chúng rất nhỏ). Trước đây, các ông Dậm ở làng có một năm ra khỏi nhà làm việc cúng thánh, rồi lại về làm việc khác, nên không phải là những ông thánh chuyên nghiệp.

6. Điểm giống và khác nhau giữa tín ngưỡng và mê tín dị đoan

6.1 Điểm giống nhau giữa Tín ngưỡng và Mê tín dị đoan

Giống như điểm giống nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng dân gian, đó là đều tin vào những điều mắt không thấy rõ, tai không nghe thấy hình thể, tiếng nói của thần linh, của đối tượng thờ cúng; Suy cho cùng, tín ngưỡng dân gian và mê tín dị đoan có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với cộng đồng trong gia đình dựa trên cơ sở niềm tin mà con người tin tưởng và noi theo gương sáng của các vị thần và đối tượng thờ cúng ở các loại hình. của tín ngưỡng và mê tín dị đoan.

6.2 Sự khác biệt giữa tín ngưỡng và mê tín dị đoan

Thứ nhất, xét về mục đích, nếu như hoạt động tôn giáo nhằm thể hiện nhu cầu đời sống tinh thần, đời sống tâm linh thì việc bà con mê tín dị đoan lấy mục đích kiếm tiền là chính. Những người hoạt động trong lĩnh vực này chỉ làm việc với khách hàng khi họ có tiền. Thứ hai, nếu trong lĩnh vực hoạt động tôn giáo không có tính chuyên nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp thì những người hoạt động mê tín dị đoan phần lớn là bán chuyên nghiệp hoặc chuyên nghiệp. Nhiều người sống và kiếm bộn tiền từ nghề này. Thứ ba, nếu sinh hoạt tôn giáo có nơi thờ tự riêng (đình, từ đường, miếu…) thì người hành nghề mê tín dị đoan thường phải lợi dụng một không gian nhất định của nơi thờ tự của các tín đồ ngưỡng dân gian để hành nghề hoặc hành nghề tại gia. Thứ tư, người có đạo thường xuyên sinh sống tại cơ sở thờ tự (ngày mồng một, ngày rằm, mồng một hàng tháng về gia đình làm lễ hầu thánh). ; hàng năm đến ngày giỗ ông bà cha mẹ phải làm (sinh nhật, v.v.), người mê tín dị đoan không làm định kỳ, vì thầy bói chỉ gặp thầy bói chỉ khi nào trong nhà xảy ra chuyện gì bất thường ( mất tài sản, đuối nước, bệnh tật, hỏa hoạn, v.v.)…), chứ bình thường chắc họ không xem bói đâu. Thứ năm, trong khi các hoạt động tôn giáo được pháp luật bảo vệ và được xã hội thừa nhận, thì các hoạt động mê tín dị đoan bị xã hội lên án và lên án.

7. Mối quan hệ giữa tôn giáo, tín ngưỡng và mê tín dị đoan

Như trên đã nói, giữa tôn giáo và tín ngưỡng; Có một số khác biệt giữa tín ngưỡng và mê tín, nhưng cũng có những điểm tương đồng. Chính từ những điểm tương đồng này mà chúng có quan hệ với nhau. Mối quan hệ đó thể hiện ở các phương diện sau:
Một là, các nhà truyền giáo của các tôn giáo phải dựa vào tín ngưỡng bản địa để tuyên truyền và thể hiện đức tin tôn giáo của mình. Về phía cộng đồng có đời sống tín ngưỡng cũng học hỏi được một số điểm phù hợp của một số tôn giáo về nghi thức hành lễ, về phẩm phục, về cách bài trí nơi thờ tự,…
Hai là, đối với hoạt động mê tín dị đoan, do không có cơ sở thờ tự chính thức, những người hành nghề đã mượn cơ sở thờ tự của tôn giáo (chủ yếu là của Phật giáo) và cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian để hành nghề. Cũng do hành nghề tại các cơ sở thờ tự tôn giáo và tín ngưỡng dân gian mà trong một mức độ nào đó, “độ tin cậy” của họ đối với khách hàng có thể được nâng cao

Ba là, một số tôn giáo và tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ Thành hoàng) dựa vào sự thiếu hiểu biết của người dân đã sử dụng một số thủ thuật của nghề mê tín dị đoan để tăng thêm sự huyền bí của một số lễ thức ngoài tôn giáo và tín ngưỡng (chẳng hạn, lễ thức xin âm dương, rút thẻ,…) mà tôn giáo, tín ngưỡng nào đó vay mượn. Mặt khác, người hành nghề mê tín dị đoan cũng học được ở các pháp sư Phật giáo một số thế tay bắt quyết để họ hành nghề trừ tà ma,…
Bốn là, những người hành nghề mê tín dị đoan hoạt động tại các cơ sở thờ tự tôn giáo và cơ sở thờ tự tín ngưỡng dân gian sẽ dễ dàng tiếp cận được với số đông khách hàng, và như vậy, nguồn lợi mà họ thu được sẽ nhiều hơn.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo