1. Tội xâm phạm chỗ ở của người khác theo quy định của Bộ luật hình sự là tội gì?
- Người nào có một trong các hành vi sau đây xâm phạm chỗ ở của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác;
b) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, gây sức ép về tinh thần hoặc thủ đoạn trái pháp luật khác buộc người khác phải rời khỏi chỗ ở hợp pháp của mình;
c) Dùng mọi thủ đoạn trái pháp luật để chiếm, giữ chỗ ở hoặc trái pháp luật cản trở, không cho người cư trú hợp pháp hoặc người quản lý nhà ở vào chỗ ở của mình;
đ) Tự ý vào chỗ ở của người khác khi chưa được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp đồng ý.

- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) được tổ chức ;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Làm cho người bị xâm phạm chỗ ở tự sát;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
- Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 1 năm đến 5 năm.
2. Tham khảo và bình luận về tội xâm phạm chỗ ở của người khác theo quy định của Bộ luật hình sự
Thứ nhất: Các yếu tố cấu thành tội xâm phạm chỗ ở của công dân
Mặt khách quan: Mặt khách quan của tội phạm này thể hiện một trong các hành vi sau đây:
- Hành vi khám xét trái phép chỗ ở của người khác. Thể hiện bằng việc khám xét chỗ ở của người khác mà không được sự đồng ý của người đó và không có lệnh của người có thẩm quyền.
Các hành vi trên có thể được thực hiện bởi người không có thẩm quyền, nhưng cũng có thể bởi người được ủy quyền, cụ thể là:
Đối với người không có nhiệm vụ: Vẫn tự động vào, khám xét chỗ ở của người khác là vi phạm pháp luật.
Ví dụ: Một người nghi người khác lấy trộm tài sản của mình nên vào nhà người khác lục soát. Đối với người có thẩm quyền (như điều tra viên, kiểm sát viên…) trong trường hợp khẩn cấp).
– Hành vi đuổi người khác ra khỏi nhà trái pháp luật. Được thể hiện bằng việc dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác buộc người bị hại phải rời khỏi nơi cư trú trái với quy định của pháp luật.
Ví dụ: Chấp hành viên đã áp dụng biện pháp buộc rời khỏi nơi cư trú nhưng nội dung này không có trong bản án, quyết định của Toà án.
- Có hành vi trái pháp luật khác xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của người khác. Được hiểu là hành vi (ngoài hai hành vi nêu trên) khiến cho người khác sử dụng chỗ ở của mình là bất hợp pháp (tức là làm cho người khác không thể ở được chỗ ở của mình).
Ghi chú:
Khách thể của tội phạm có thể là nhà ở thuộc sở hữu hợp pháp của người bị hại, có thể là nơi ở, chỗ ở thuê hoặc bất cứ nơi nào người bị hại ở (như nhà kho, buồng ngủ...), xe ô tô, tàu thuyền...
Khán giả:
Hành vi trên xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân.
Mặt chủ quan:
Thủ phạm phạm tội này do cố ý.
Chủ thể:
Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.
Thứ hai: Về hình phạt đối với tội xâm phạm chỗ ở của người khác
Mức hình phạt đối với tội này được chia thành hai khung, cụ thể như sau:
– Khung một (khoản 1)
Có mức xử phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm. Được áp dụng trong trường hợp thực hiện tội phạm có đủ các dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội phạm này được nêu ở mặt khách quan.
– Khung thứ hai (khoản 2)
Có mức phạt tù từ một năm đến ba năm. Áp dụng cho một trong các hành vi phạm tội sau đây:
Tội phạm có tổ chức. Đây là trường hợp phạm tội có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người (đồng phạm) để thực hiện tội phạm.
Lạm dụng chức vụ, quyền hạn. Gây hậu quả nghiêm trọng (xem phần giải thích tương tự đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật).
– Hình phạt bổ sung (khoản 3)
Ngoài việc phải chịu một trong các hình phạt chính nêu trên, tuỳ trường hợp, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Một số vấn đề cần chú ý:
“Nơi ở của công dân” mặc dù pháp luật không xác định chỗ ở hợp pháp hay không hợp pháp, nhưng theo Điều 73 Hiến pháp 1992, công dân có quyền bất khả xâm phạm về nhà ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được họ đồng ý, trừ trường hợp pháp luật cho phép. Từ cơ sở pháp lý nêu trên, theo quan điểm của chúng tôi, chỗ ở của công dân là nơi ở, có thể hợp pháp. Ví dụ, nhà đã có chủ quyền nhưng cũng có thể là nhà trái phép như gầm cầu, vỉa hè, công viên... Nếu chỗ ở của công dân là trái phép thì khi tác động di dời thì nơi cư trú đó phải tuân theo quy định của pháp luật. quy định của pháp luật. Nếu họ tự ý xâm phạm nơi cư trú là có dấu hiệu cấu thành tội phạm này.
Nếu do trình độ thấp hoặc thiếu trách nhiệm mà có hành vi xâm phạm trái phép chỗ ở của công dân thì không bị truy cứu trách nhiệm về tội này mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hành chính.
Theo chúng tôi, nếu hành vi xâm phạm trái pháp luật chỗ ở của công dân mà là hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc để chiếm đoạt chỗ ở của người khác thì đó là hành vi phạm tội trộm cắp tài sản.
Các trường hợp pháp luật cho phép khám xét chỗ ở của công dân bao gồm:
Khám chỗ ở theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, trong đó có Điều 140 - Căn cứ khám chỗ ở của công dân; Điều 141 – thẩm quyền ra lệnh khám chỗ ở của công dân; Điều 143 – Nội dung khám nhà công dân. Khám chỗ ở theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, bao gồm: Điều 49 – Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện; Điều 45. Thẩm quyền khám nơi cất giấu vật chứng.
Như vậy, việc khám xét nhà của công dân ngoài các quy định pháp luật nêu trên được coi là khám xét trái pháp luật.
Tội phạm hoàn thành do quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân bị xâm phạm, bất kể xấu xa hay xấu xa. Nếu chỗ ở của công dân chưa bị xâm phạm thì không cấu thành tội phạm.
Ví dụ: Người có thẩm quyền ký quyết định trái pháp luật nhưng chưa thực hiện hoặc chưa chuẩn bị sẵn phương án, công cụ, phương tiện để đuổi người khác chiếm đoạt nhà của mình nhưng không thực hiện… thì hành vi này chưa cấu thành tội Xâm phạm nhà ở. nơi cư trú của một công dân.
Nội dung bài viết:
Bình luận