Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác là tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015 (Sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự 2017). Luật sư phân tích các quy định của pháp luật liên quan đến tội phạm này và giải quyết một số vấn đề liên quan khác:
1. Các quy định liên quan đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Theo quy định hiện hành: tại điều 174 BLHS năm 2015, BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2017:
“Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an toàn xã hội, trật tự, an ninh;
d) Tài sản là tư liệu sinh sống chính của người bị hại và gia đình; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
được tổ chức ;
b) Mang tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
đ) Tái phát nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc trục lợi danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn khôn khéo;
g) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản".
Quy định mới của Bộ luật hình sự năm 2015 có nhiều thay đổi so với bộ luật hình sự cũ về hình phạt cũng như những tình tiết định khung về số lượng tiền lừa đảo hoặc chiếm đoạt:
PHÂN TÍCH VÀ BÌNH LUẬN KHOA HỌC VỀ TỘI DANH LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN:
Khái niệm: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin nhầm giao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt tài sản đó:
1.1. Mặt khách quan tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Mặt khách quan của tội này có các dấu hiệu sau:
a) Về hành vi: Có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản
- Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ viết (viết thư), bằng hành động … (ví dụ: kẻ phạm tội nói là mượn xe đi chợ nhưng sau khi lấy được xe đem bán lấy tiền tiêu xài không trả xe cho chủ sở hữu) và bằng nhiều hình thức khác như giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản.
- Chiếm đoạt tài sản, được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình. Tính đặc thù của hành vi chiếm đoạt này là nó gắn liền và có mối quan hệ nhân quả với hành vi dùng thủ đoạn lừa đảo.
Như vậy, có thể phân biệt với các trường hợp dùng thủ đoạn gian dối khác, như dùng thủ đoạn cân, đo, đong, đếm để lừa dối khách hàng hoặc bán hàng giả để thu lợi bất chính thì không cấu thành tội phạm này mà cấu thành tội lừa dối khách hàng hoặc tội buôn bán hàng giả.
Lưu ý: Thời điểm phạm tội này được xác định từ khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản sau khi dùng thủ đoạn gian dối để lừa dối chủ sở hữu, người quản lý tài sản giao tài sản cho người phạm tội hoặc không nhận tài sản mà lẽ ra phải nhận.
- Dấu hiệu bắt buộc của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là việc người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Nếu có hành vi gian dối mà không có hành vi chiếm đoạt (chỉ chiếm hữu, sử dụng) thì tùy từng trường hợp, người thực hiện hành vi gian dối trên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm giữ trái phép hoặc sử dụng trái pháp luật tài sản, nếu chỉ là quan hệ dân sự
- Khi hành vi lừa dối hoặc hành vi chiếm đoạt cấu thành một tội phạm độc lập khác thì người phạm tội sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh tương ứng. Ví dụ, hành vi gian lận làm tem giả, tiền giả… (điều 164 BLHS), hành vi gian lận trong đo đếm, gian lận tráo đổi hàng hóa (điều 162 BLHS), hành vi chiếm đoạt chất ma túy (điều 194 BLHS), hành vi buôn bán, sản xuất hàng giả là thực phẩm, thuốc chữa bệnh, phòng bệnh (điều 157); hành vi tiếp thị, sản xuất hàng giả là thức ăn chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 158 BLHS) đều có dấu hiệu của tội lừa đảo.
b) Các biển báo khác
Về giá trị tài sản chiếm đoạt: Giá trị tài sản chiếm đoạt phải từ hai triệu đồng trở lên.
Nếu dưới hai triệu đồng thì phải gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Đó là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội phạm này.1.2. Đối tượng lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
Hành vi trên xâm phạm đến quyền tài sản của người khác.
1.3. Mặt chủ quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Thủ phạm thực hiện tội phạm này do lỗi cố ý.
Tuy nhiên, cần lưu ý:
Về ý chí của người thực hiện hành vi lừa đảo thì trước khi thực hiện hành vi lừa đảo bao giờ cũng có ý định chiếm đoạt tài sản, đây chính là điểm phân biệt cấu thành tội tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Vì trong một số trường hợp phạm tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, ý định chiếm đoạt tài sản bao giờ cũng nảy sinh sau khi đã nhận được tài sản thông qua một hình thức giao dịch nào đó.
Ý thức chiếm đoạt phải có trước thủ đoạn lừa đảo và hành vi chiếm đoạt tài sản. Thủ đoạn gian dối bao giờ cũng cần thiết trước khi giao tài sản giữa người bị hại và người phạm tội. Nếu sau khi có được quyền sở hữu hợp pháp mà nảy sinh hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì không coi là tội lừa đảo chiếm hữu hợp pháp mà tuỳ từng trường hợp cụ thể người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng (như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản).2. Bị lừa đảo khi đi xin việc xử lý như thế nào?
Xin chào Luật sư! Em có câu hỏi mong nhận được câu trả lời như sau: Em có quen một chị, lúc đầu chỉ gặp nhau vài lần làm quen, sau một lần tình cờ vào quán cà phê nói chuyện, chị biết công việc của em không ổn định nên nói giúp em xin vào cơ quan nhà nước. Sau đó tôi do dự nên khoảng 1 tháng sau cô ấy gọi cho tôi, bảo có việc tốt, bảo tôi gửi cho cô ấy ít hồ sơ và đưa trước 3 triệu để lo tiền nước, tôi đưa hồ sơ và tiền cho cô ấy. Nhưng 2 tháng sau cô ấy gọi lại cho tôi và nói nơi đó không tốt lắm nên tôi đã gửi đơn đến một nơi tốt hơn, tôi cũng tin. sau đó cô ấy nói với tôi rằng hồ sơ đã được đánh giá, chấp nhận, trong khi chờ đợi để đi làm. Cô ấy nói giờ đưa trước cho anh 40 triệu để lo chuyện người ta rồi quyết định. Tôi đưa cho cô ấy 40 triệu (khi tôi đưa tiền cô ấy có tính cả chồng cô ấy). Nhưng 1 tháng sau không thấy gì, gặp em hỏi thì em bảo hỏi lại trả lời ngay, 2 hôm sau em gọi điện bảo công việc gần xong anh phải đưa 10 triệu nữa, em nói không có tiền, em bảo anh cho ai mượn rồi từ từ trả lại. Sau một tuần, cô ấy gọi cho tôi và yêu cầu tôi đưa cho cô ấy một số tiền vì cô ấy đang chăm sóc tôi và cần tiền. Tôi tin tưởng cô ấy vì cô ấy đang đi thi hành án và gia đình cô ấy vẫn ổn nhưng sau khi nhận đủ tiền thì gần 5 tháng sau tôi không thấy quyết định đâu cả, suốt thời gian đó tôi gặng hỏi thì cô ấy cứ 1 mực xin lỗi là nơi tôi nộp hồ sơ bận công việc. Tháng 8/2015, tôi biết cô ấy xin chuyển công tác vào TP.HCM nên tôi bảo cô ấy nhất định phải đáp ứng, lúc đó cô ấy hẹn gặp tôi xin việc ở đâu thì tôi mới đáp ứng. Ngày hôm sau cô ấy nói với tôi rằng công việc vẫn chưa hoàn thành và cô ấy hứa sẽ hoàn lại tiền cho tôi. Tuy nhiên, từ tháng 9/2016 đến nay, khi tôi bảo trả tiền thì cô ấy cứ trễ hẹn hết lần này đến lần khác, có khi còn bảo chồng gọi điện hẹn trước. Tôi tức quá, giờ tôi cần tiền gọi cho cô ấy để trả mà cô ấy không nghe điện thoại, nhắn tin cũng không trả lời? Theo luật sư, những hành vi trên của anh ta có cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản hay không? - Nếu bây giờ tôi muốn theo đuổi thì cần những thủ tục gì? Tôi đã ghi âm cuộc trao đổi tin nhắn đòi tiền giữa cô ấy và tôi, cũng như một đoạn ghi âm. Mong được tư vấn. Tôi xin cảm ơn!
Trả lời
Theo thông tin bạn cung cấp, bạn đã đưa cho người khác số tiền là 43 triệu đồng để đi xin việc, tuy nhiên sau một thời gian dài vẫn chưa có kết quả và người này có dấu hiệu không trả lại số tiền đó cho bạn. Với trường hợp của bạn, chúng tôi đề xuất hai khả năng như sau:
- Nếu trong khi đưa tiền, bạn và người này ký hợp đồng mượn tài sản thì hợp đồng này bị tuyên bố vô hiệu. Như vậy, theo quy định tại khoản 2 điều 131 BLDS 2015 thì các bên phải hoàn trả lại những gì đã nhận và trả lại nguyên trạng.
“Điều 131. Hậu quả pháp lý của hành vi dân sự vô hiệu
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trong trường hợp không thể trả lại bằng hiện vật, giá trị tiền sẽ được hoàn trả."
Như vậy, người nhận làm công cho bạn sẽ phải bồi hoàn cho bạn số tiền 20 triệu đồng đã nhận của bạn. Nếu người đó từ chối trả tiền, bạn có quyền khởi kiện để lấy lại tiền của mình. Khi đưa ra yêu cầu, bạn cần phải kèm theo các bằng chứng như tin nhắn văn bản yêu cầu số tiền trao đổi giữa bạn và người này và các bản ghi âm cuộc gọi yêu cầu số tiền.
- Nếu giữa bạn và người này không có hợp đồng vay tài sản mà người này không trả thì bạn có quyền yêu cầu cơ quan công an khởi tố người này về tội Tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) (vì người này làm việc trong cơ quan thi hành án):
"Quy tắc 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Người nào bằng thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
được tổ chức" ;
“Điều 354. Tội nhận hối lộ
1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian để nhận hoặc sẽ nhận một trong các lợi ích sau đây để tự mình hoặc cho người khác, tổ chức khác thực hiện hoặc không thực hiện công việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người có hành vi tham nhũng, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Lợi ích phi vật chất.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
được tổ chức ;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
đ) Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng;
đ) Phạm tội hai lần trở lên;
đ) Biết của hối lộ là tài sản của Nhà nước;
g) Đòi hối lộ, sách nhiễu, dùng thủ đoạn.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:
a) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
b) Gây thiệt hại về vật chất từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên. 5. Người vi phạm còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng và bị tịch thu toàn bộ hoặc một phần tài sản.
6. Người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước mà nhận hối lộ thì bị xử lý theo quy định tại Điều này.3. Trình báo hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản như thế nào?
Thưa Luật sư, Hôm qua tôi có nhận được tin nhắn trúng thưởng qua Facebook với phần thưởng là 1 xe SH125i trị giá 81 triệu đồng, 1 phiếu quà tặng trị giá 200 triệu đồng và 1 thẻ xăng trị giá 5 triệu đồng. Tin nhắn này yêu cầu tôi vào một trang tạo hồ sơ để nhận giải, sau đó yêu cầu tôi nạp 2 triệu thẻ cào điện thoại để xác thực hồ sơ, sau đó có người tên D yêu cầu tôi nộp 5 triệu thẻ cào để làm thủ tục nhận giải. Thanh toán xong 5 triệu thì nhận được điện thoại yêu cầu thanh toán 10 triệu VAT cũng bằng thẻ cào điện thoại. Sau đó bảo gửi vào tài khoản 5 triệu để ngân hàng xác thực tài khoản, sau đó ngân hàng sẽ chuyển tiền. Sau đó tôi nhận được điện thoại yêu cầu cung cấp số điện thoại khi tôi làm thẻ để ngân hàng xác thực tài khoản. Tôi đưa số điện thoại theo yêu cầu thì nhận được tin nhắn từ ngân hàng báo tài khoản của tôi đã chuyển tiền sang tài khoản khác. Tôi gọi lại cho anh ấy nhưng anh ấy không trả lời. Xin hãy tư vấn cho tôi, tôi phải làm gì bây giờ? Tôi xin chân thành cảm ơn!
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015, bổ sung năm 2017 liên quan đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì dấu hiệu pháp lý của tội này như sau:
- Hành vi dùng thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác
- Xâm phạm quyền tài sản của người khác
- Cố ý thực hiện hành vi
- Giá trị tài sản từ 2 triệu trở lên
Trong trường hợp này, D đã dùng thủ đoạn lừa đảo, lợi dụng lòng tin của bạn để chiếm đoạt số tiền là 22 triệu đồng. Như vậy, D có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Do bạn chỉ biết thông tin của người này qua điện thoại nên bạn có thể gửi đơn khiếu nại đến cơ quan công an để được giải quyết kèm theo chứng cứ theo quy định của luật tố cáo để chứng minh việc tố cáo của bạn là hợp pháp.
Điều 144 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về tố giác, tin báo về tội phạm:
Công dân có quyền tố cáo hành vi vi phạm với cơ quan điều tra, kiểm sát, tòa án hoặc cơ quan, tổ chức khác. Nếu tố cáo bằng lời nói thì cơ quan, tổ chức chủ trì phải lập biên bản và có chữ ký của người tố cáo. Khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân, cơ quan, tổ chức phải báo ngay tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản theo quy định của Luật tố giác tội phạm số 03/2011/QH13. 4. Quản lý hành vi lừa đảo qua Lừa đảo qua Zalo như thế nào? Thưa luật sư, Tôi muốn hỏi: Tôi có quen một người bạn qua mạng xã hội zalo, quen nhau thì bạn ấy hay kể về cuộc sống khó khăn và đang ở nước ngoài (như bạn ấy kể) sau đó một thời gian bạn ấy vay tiền để mua đồ cá nhân tại Việt Nam vì ở xa nên không tiện nhắn tin nhắc bạn ấy chuyển tiền cho một người tên A để người này mua hàng. Mình tin tưởng nên đã gửi nhiều lần cho bạn A. Sau này cãi nhau thì bạn này chặn không cho mình liên lạc (mình không có kênh liên lạc nào khác ngoài zalo). Tôi có nhiều nghi vấn Chủ tài khoản A thông đồng với người phụ nữ này để chiếm đoạt tài sản của tôi. Do tôi hỏi anh A thông tin mua bán và hóa đơn mua bán của người bạn này thì anh A nói kinh doanh bán qua mạng nên không giữ nữa. Khi tôi hỏi xem địa chỉ mà A đã chuyển hàng ra nước ngoài cho anh ta (qua hải quan sân bay), A ngập ngừng và cho tôi một địa chỉ tuyệt vời. Sau đó tôi gửi địa chỉ này cho công an địa phương nước đó thì họ trả lời là địa chỉ không đúng trong khi anh A khẳng định với tôi rằng anh ấy đã chuyển đến địa chỉ này rất nhiều trong năm vừa rồi, 2 cơ quan công an nước ngoài đã xác nhận với tôi qua email là địa chỉ người A cung cấp là sai, không tồn tại như vậy. Tôi có thể kết luận anh A và người bạn này cố tình bịa chuyện để chiếm đoạt tài sản của tôi không? Tôi có cơ sở pháp lý để làm đơn tố cáo ông A không? Riêng bạn này thì mình không có thông tin. Đối với ông A, tôi vẫn có số điện thoại, số tài khoản giao dịch, tên thương mại, bằng chứng cung cấp địa chỉ giả và email xác nhận địa chỉ này là sai từ cảnh sát nước ngoài. Tổng số tiền tôi chuyển trong 4 tháng là gần 30 triệu đồng.
Luật sư tư vấn:
Vấn đề của bạn, chúng tôi tư vấn cho bạn như sau:
Như bạn giới thiệu: Quen biết và kể cho một người bạn ở nước ngoài qua Zalo. Sau khi nói chuyện, bạn có cho người này vay số tiền là 30 triệu. Bạn đã nhiều lần gửi hàng qua Anh A để mua hàng gửi cho một người bạn ở nước ngoài. Nhưng sau đó, do giữa hai người xảy ra mâu thuẫn nên cắt đứt liên lạc. Khi bị anh A tra hỏi, anh A cung cấp địa chỉ gửi tiền cho một người bạn nước ngoài là không có thật. Hiện tại, bạn chỉ có một số thông tin về anh A để tìm từng người bạn ở nước ngoài. Vấn đề của bạn được pháp luật quy định như sau:
Về hành vi, vai trò của anh A trong quá trình gửi tiền để yêu cầu chuyển hàng ra nước ngoài, anh A chỉ là người trung gian giữa bạn và người bạn nước ngoài của bạn trong vấn đề này. Do đó, giữa anh A và người bạn nước ngoài này sẽ có sự liên lạc, trao đổi thông tin giữa họ. Như thông tin liên hệ mua hàng, địa chỉ nhận hàng qua sân bay. Do đó, việc cung cấp cho bạn thông tin về địa chỉ của một người bạn nước ngoài không tồn tại là mâu thuẫn. Tại đây bạn có số tài khoản của giao dịch, tên giao dịch sẽ có thông tin về số lần chuyển và số tiền. Với những thông tin qua tin nhắn Zalo còn lưu trong Nick trên thiết bị của bạn, bạn có thể xác minh được anh A có tham gia vào giao dịch này hay không.
Do đó, việc anh A cung cấp địa chỉ không tồn tại là hành vi che giấu tội phạm được quy định tại Điều 389 Bộ luật Hình sự 2015, Luật Hình sự sửa đổi, bổ sung 2017. Bạn có thể làm đơn tố cáo anh A với tội danh này để cơ quan công an điều tra làm rõ hành vi của anh A và thông tin của người bạn nước ngoài.
5. Xử lý tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản?
Thưa luật sư, Tôi muốn hỏi: Do tin tưởng làm ăn lâu năm nên tôi đã đưa sổ đỏ cho người bán nhà để trả nợ nhưng sau khi tôi bán nhà người đó không trả và bỏ trốn, khi làm ăn với người này tôi chỉ ghi thông tin địa chỉ trên CMND, thông tin này là nơi ở của bố mẹ người này, gia đình người này biết chuyện nhưng bao che, vậy tôi phải khởi kiện và án phí như thế nào? Xin vui lòng cho tôi biết. Xin chân thành cảm ơn!
Đăng bởi: Nguyễn Mỹ Hương
Trả lời:
Với những tình tiết mà bạn nêu, có thể thấy có dấu hiệu phạm tội trong tình huống này. Đây có thể là dấu hiệu của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015, Luật sửa đổi, bổ sung 2017. Bạn có thể gửi đơn yêu cầu đến cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp huyện nơi người đó cư trú. Theo quy định tại Điều 12 Luật cư trú thì nơi cư trú của công dân được xác định như sau:
“Điều 12. Nơi cư trú của công dân
1. Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú. Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện đi lại hoặc chỗ ở khác mà công dân dùng để ở. Nhà ở hợp pháp có thể thuộc sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, mượn, cấp phép sử dụng theo quy định của pháp luật.
Nơi thường trú là nơi công dân có thời gian thường trú, ổn định, không xác định thời hạn ở một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú.
Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú.
2. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của công dân theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi cư trú của công dân là nơi người đó đang sinh sống.
Vậy bạn có thể gửi đơn yêu cầu đến cơ quan cảnh sát điều tra cấp quận, huyện nơi người đó sinh sống. Nếu bạn cũng không biết người này sinh sống ở đâu thì bạn có thể gửi yêu cầu đến cơ quan cảnh sát điều tra cấp quận, huyện nơi người đó cư trú cuối cùng theo sự hiểu biết của bạn.
Án phí dân sự sơ thẩm là 200.000 đồng.
Còn việc gia đình người này biết nhưng bao che thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 390 Bộ luật Hình sự năm 2015, luật sửa đổi, bổ sung năm 2017. "Thứ nhất. Người nào biết rõ mình đang thực hiện một trong các tội quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 14 của Bộ luật này hoặc biết rõ đang thực hiện hoặc đã phạm một trong các tội quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 19 của Bộ luật này, nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 19 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 03 tháng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 06 năm.
2. Người không khai báo, nếu đã có biện pháp ngăn chặn người phạm tội hoặc hạn chế thiệt hại của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt”.
Nội dung bài viết:
Bình luận