Khủng bố là gì? Phân loại khủng bố? Tội khủng bố theo BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017?
![]()
Đấu tranh phòng, chống khủng bố là mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, nhất là trong bối cảnh chủ nghĩa khủng bố ngày càng gia tăng, đe dọa hòa bình, an ninh quốc tế và quốc gia. Pháp luật hình sự Việt Nam quy định tội khủng bố có mức hình phạt cao nhất là tử hình cho thấy những biện pháp quyết liệt của nước ta trong đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. Cơ sở pháp lý:
BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017
Đạo luật chống khủng bố 2013.
Nghị quyết 07/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại điều 299 và 300 của BLHS.1. Thế nào là tội khủng bố?
Trên thực tế, hầu hết các điều ước quốc tế không định nghĩa chủ nghĩa khủng bố hoặc không đề cập trực tiếp đến khái niệm chủ nghĩa khủng bố.
Các cơ quan hữu quan của Liên hợp quốc định nghĩa: Hoạt động khủng bố là hoạt động phá hoại quyền con người, quyền dân chủ và quyền tự do cá nhân, đe dọa an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, gây sức ép đối với đất nước, phá vỡ văn minh xã hội, cấu thành tội phạm gây hậu quả xấu cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuyên bố của Liên hợp quốc về khủng bố nêu rõ: Tất cả các hình thức khủng bố, dù xảy ra ở đâu, ai chịu trách nhiệm về mưa gió và hành vi phạm tội như thế nào, đều không thể biện minh được, do đó thông qua các điều khoản của Hiệp ước quốc tế, cần có thêm các biện pháp trừng phạt.
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống khủng bố 2013: Khủng bố là một, một số hoặc toàn bộ hành vi sau đây của tổ chức, cá nhân nhằm chống chính quyền nhân dân, cưỡng chế chính quyền nhân dân, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế gây khó khăn cho quan hệ quốc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc gây hoang mang trong dư luận.
Như vậy, “tội khủng bố” là tội phạm nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, là hành vi gây hoang mang dư luận, chống chính quyền nhân dân, xâm hại tính mạng của người khác, hủy hoại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân (là hành vi làm cho tài sản mất giá trị sử dụng và không thể trả lại được).2. Phân loại khủng bố:
khủng bố nhà nước
– Đó là một hành động khủng bố được thực hiện bởi nhà nước, sử dụng các công cụ có sẵn cho một nhà nước, chẳng hạn như thực thi pháp luật, thực thi pháp luật dựa trên các phương tiện hợp pháp. – Vụ ám sát các nhà lãnh đạo phong trào Hamas của Palestine năm 2004 của Israel được coi là một ví dụ về chủ nghĩa khủng bố nhà nước.
khủng bố do nhà nước tài trợ
– Đó là một hành động khủng bố được thực hiện bởi một nhóm khủng bố quốc gia hoặc quốc tế, được tài trợ bởi chính phủ quốc gia.
– Theo Mỹ, Afghanistan, Libya và Iraq là ba quốc gia hàng đầu tài trợ cho chủ nghĩa khủng bố quốc tế với mục đích riêng. Với phương pháp này, một nhà tài trợ khủng bố nhà nước có thể sử dụng các đại lý hoặc đại diện dịch vụ bí mật của mình để tạo ra sự bất ổn kinh tế và chính trị ở một quốc gia khác.
– Các quốc gia cũng có thể tài trợ cho khủng bố bằng cách cung cấp phương tiện, tiền, vũ khí và thiết bị quân sự, huấn luyện và cung cấp thông tin di chuyển cho những kẻ khủng bố. Chủ nghĩa khủng bố dân tộc chủ nghĩa, hay chủ nghĩa khủng bố với chủ nghĩa ly khai sắc tộc.
Do đó, các hoạt động khủng bố thường được sử dụng trong các hoạt động của các phong trào chống thực dân của những người theo chủ nghĩa dân tộc, hoặc bởi các nhóm đấu tranh đòi ly khai của một quốc gia nào đó.
– Ví dụ như phong trào Basque ở Tây Ban Nha, phong trào Sikh ở Ấn Độ hay phong trào chống Israel của Palestine.
Chủ nghĩa khủng bố tư tưởng/Khủng bố xã hội
Trong hình thức này, những kẻ khủng bố sử dụng khủng bố để thay đổi chính sách trong nước (ví dụ như luật phá thai) hoặc để lật đổ một chính phủ. Loại khủng bố này cũng có thể mang màu sắc tôn giáo. tội phạm khủng bố
– Các tập đoàn buôn bán ma túy có thể sử dụng khủng bố để bảo vệ lợi ích của mình bằng cách tấn công chính phủ và các cá nhân với mục đích cản trở hoạt động và ảnh hưởng của họ.
– Ví dụ, các tổ chức mafia ở Ý đã sử dụng chủ nghĩa khủng bố để cản trở các nỗ lực của chính phủ Ý nhằm trấn áp hoạt động tội phạm.3. Tội khủng bố theo Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:
BLHS 2015 quy định tội khủng bố tại hai điều, ngoài các điều khác như sau:
“Điều 299. Tội khủng bố
Đầu tiên. Người nào nhằm gây hoang mang trong dư luận mà gây thiệt hại cho tính mạng của người khác hoặc hủy hoại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 15 năm:
a) Thành lập hoặc tham gia tổ chức khủng bố, tổ chức hỗ trợ khủng bố;
(b) Ép buộc, xúi giục, tuyển mộ, đào tạo, huấn luyện phần tử khủng bố; sản xuất và cung cấp vũ khí cho bọn khủng bố;
c) Xâm phạm quyền tự do thân thể, sức khỏe hoặc chiếm giữ làm hư hỏng tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
d) Tấn công, xâm phạm, cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
3. Phạm tội trong trường hợp đe dọa thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 điều này hoặc thực hiện hành vi khác uy hiếp tinh thần, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. 4. Người nào chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị tước một số quyền công dân, phạt quản chế, cấm cư trú từ một năm đến năm năm, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
* Về dấu hiệu khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan được quy định trong cấu thành tội phạm tại Điều 1 là hành vi gây nguy hiểm cho tính mạng của người khác, hủy hoại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Nhóm hành vi phụ (khoản 2) là: Thành lập, tham gia tổ chức khủng bố, tổ chức tài trợ khủng bố; Ép buộc, xúi giục, tuyển mộ, đào tạo, huấn luyện phần tử khủng bố; sản xuất và cung cấp vũ khí cho bọn khủng bố; Xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe hoặc chiếm giữ, làm hư hỏng tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Tấn công, xâm phạm, gây cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Nhóm thứ ba là hành vi đe dọa thực hiện các hành vi trên (khoản 2) hoặc hành vi khác uy hiếp tinh thần, có thể được thực hiện bằng lời nói, gửi tin nhắn, hình ảnh hoặc bằng các hành vi khác làm cho cơ quan, tổ chức, cá nhân biết được và lo sợ về sự an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ
* Mặt chủ quan của tội phạm:
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý.
Mục đích của người phạm tội là gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng- là trạng thái tâm lý lo lắng, sợ hãi, hoang mang của người dân về an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ (ví dụ: hành vi gây nổ ở khu vực bến xe làm cho người dân lo lắng về sự an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản của họ khi tham gia giao thông).
Để gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng, các hành vi khủng bố quy định tại Điều 299 của Bộ luật Hình sự có thể được thực hiện ở nơi công cộng, nơi tập trung đông người (ví dụ: quảng trường, trung tâm thương mại, nơi giao cắt đường giao thông, tại nhà ga các phương tiện giao thông, trên các phương tiện giao thông, tại các nơi vui chơi, giải trí, du lịch, trường học, bệnh viện, khu dân cư, tại các tòa nhà,…).
Hành vi được thực hiện ở những địa điểm có tính biệt lập, không phải nơi công cộng (ví dụ: tại nhà riêng hoặc trong trụ sở cơ quan…) nhưng nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng thì cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội khủng bố theo Điều 299 của Bộ luật Hình sự nếu thỏa mãn các dấu hiệu khác của cấu thành tội phạm này.
* Chủ thể của tội phạm: Là người đủ tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự, là chủ thể bình thường. * Khách thể của tội phạm: Tội khủng bố phá hoại an ninh, trật tự công cộng.
* Hình phạt: Điều 299 quy định 3 khung hình phạt đối với 3 loại tội phạm.
Khung hình phạt cho tội lần đầu là phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Khung hình phạt đối với nhóm hành vi thứ hai, phạt tù từ 5 năm đến 15 năm.
Khung hình phạt đối với nhóm hành vi thứ ba, phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung hình phạt bổ sung: tước một số quyền công dân, quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu toàn bộ hoặc một phần tài sản.
“Điều 113. Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân
1. Người nào nhằm chống chính quyền nhân dân mà gây nguy hiểm cho tính mạng của cán bộ, công chức hoặc người khác hoặc hủy hoại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
a) Thành lập hoặc tham gia tổ chức khủng bố, tổ chức hỗ trợ khủng bố;
(b) Ép buộc, xúi giục, tuyển mộ, đào tạo, huấn luyện phần tử khủng bố; sản xuất và cung cấp vũ khí cho bọn khủng bố;
c) Xâm phạm quyền tự do thân thể và sức khỏe của người điều hành, cán bộ hoặc người khác; chiếm giữ, làm hư hỏng tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
d) Tấn công, xâm phạm, cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
3. Phạm tội trong trường hợp đe dọa thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này hoặc có hành vi khác gây ảnh hưởng đến tinh thần của người thi hành công vụ, cán bộ công chức hoặc người khác, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
4. Khủng bố cá nhân, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế nhằm gây khó khăn cho quan hệ quốc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cũng bị xử phạt theo quy định tại điều này.
5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
– Người thực hiện hành vi khủng bố phải nhằm một trong hai mục đích là nhằm chống chính quyền nhân dân hoặc nhằm gây khó khăn cho quan hệ quốc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
– Các dạng hành vi khủng bố bao gồm: Xâm phạm tính mạng của cán bộ, công chức hoặc công dân; Thành lập, tham gia tổ chức khủng bố, tổ chức tài trợ khủng bố; Cưỡng ép, lôi kéo, tuyển mộ, đào tạo, huấn luyện phần tử khủng bố; chế tạo, cung cấp vũ khí cho phần tử khủng bố; Xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe của cán bộ, công chức hoặc người khác; chiếm giữ, làm hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Tấn công, xâm hại, cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Phạm tội trong trường hợp đe dọa thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này hoặc có hành vi khác uy hiếp tinh thần của cán bộ, công chức hoặc người khác, Khủng bố cá nhân, tổ chức nước ngoài hoặc các tổ chức quốc tế nhằm gây khó khăn cho quan hệ quốc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì cũng bị xử phạt theo Điều này.
– Hậu quả do hành vi khủng bố gây ra bắt buộc và được coi là phương tiện để người phạm tội đạt được với mục đích chống chính quyền nhân dân.
– Người phạm tội khủng bố phải chịu hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình và có hình phạt từ 01 năm đến 05 năm đối với người chuẩn bị phạm tội. Tuy nhiên, hành vi quy định tại Điều 113 này chỉ cấu thành tội khủng bố theo quy định của BLHS 2015 nếu được thực hiện nhằm chống chính quyền nhân dân hoặc nhằm gây khó khăn cho quan hệ quốc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khác với tội khủng bố (Điều 299) trong Bộ luật này.
Kết luận: Nếu không có luật pháp quốc tế, sự hợp tác của các quốc gia trong cuộc chiến chống khủng bố khó có thể đạt được. Cơ sở pháp luật quốc tế về chống khủng bố nói riêng và chống khủng bố quốc tế nói chung đã có, nhưng chưa đầy đủ và đồng bộ. Tuy nhiên, những nỗ lực của cộng đồng quốc tế trong cuộc chiến chống khủng bố đã được tăng cường và nhận thức của cộng đồng quốc tế về sự nguy hiểm của chủ nghĩa khủng bố cũng được nâng cao. Vì vậy, luật chống khủng bố quốc tế cũng có nhiều triển vọng phát triển và hoàn thiện, khắc phục những khác biệt về tôn giáo, hệ tư tưởng và bối cảnh phức tạp của các quốc gia.
Nội dung bài viết:
Bình luận