I. Ai đã giúp thực hiện tội ác?
Căn cứ vào Mục 17 Bộ luật Hình sự 2015, người giúp đỡ phạm tội có quy định như sau:
-
Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý thực hiện cùng một tội phạm.
-
Tội phạm có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự thông đồng chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.
-
Đồng phạm gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy tội phạm. Người xúi giục là người xúi giục, lôi kéo, thúc đẩy người khác phạm tội. Người giúp đỡ là người tạo ra các điều kiện về tinh thần hoặc thể chất cần thiết cho việc thực hiện tội phạm.
-
Những người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi quá đáng của người hành nghề. Như vậy, người giúp đỡ phạm tội hoặc người giúp đỡ là người tạo điều kiện về tinh thần hoặc vật chất cho việc phạm tội.
Ví dụ về động viên tinh thần như hứa hỗ trợ phạm tội, hứa tiêu thụ tài sản phạm tội có được, cung cấp thông tin để phạm tội v.v…, hành vi này có thể xảy ra hoặc có thể không xảy ra trên thực tế. Tạo điều kiện vật chất có thể bao gồm việc cung cấp công cụ, phương tiện hoặc khắc phục những trở ngại để tạo điều kiện cho người hành nghề phạm tội dễ dàng, thuận tiện hơn.
II. Hình phạt của người giúp đỡ phạm tội được quy định như thế nào?
Theo Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về quyết định xử phạt người giúp đỡ phạm tội, được quy định như sau:
Quyết định hình thức xử phạt trong trường hợp đồng phạm
Khi quyết định hình phạt cho những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất của những người đồng phạm, tính chất, mức độ tham gia vào tội phạm của mỗi người đồng phạm. Việc giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của đồng phạm chỉ áp dụng đối với người đó. Như vậy, khi quyết định chế tài đối với những người đồng phạm (người giúp sức thực hiện tội phạm cũng là đồng phạm), Tòa án phải tính đến tính chất của những người đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia tội phạm của họ.
Ngoài ra, Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bổ sung bởi Khoản 7 Khoản 1 Bộ luật Hình sự sửa đổi 2017) còn quy định như sau:
Quyết định hình phạt thấp hơn mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng
- Tòa án có thể tuyên mức án thấp hơn mức thấp nhất của mức án được áp dụng, nhưng phải ở mức án thấp nhất liền kề của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều này. Điều 51 của Bộ luật này.
- Tòa án có thể ra mức án thấp hơn mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không nhất thiết phải ở mức khung hình phạt nhẹ liền kề của pháp luật đối với người phạm tội lần đầu giúp đỡ. vai trò.
- Trong trường hợp có đủ điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này mà pháp luật chỉ quy định một khung hình phạt hoặc khung hình phạt này là khung hình phạt nhẹ hơn thì Tòa án có thể quyết định mức hình phạt thấp hơn mức thấp nhất. mức phạt. khung hoặc đổi sang hình phạt khác nhẹ hơn. Lý do giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án. Tòa án có thể ra mức án thấp hơn mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không nhất thiết phải ở mức khung hình phạt nhẹ liền kề của pháp luật đối với người phạm tội lần đầu giúp đỡ. tội phạm) nhưng có vai trò không đáng kể.
Nội dung bài viết:
Bình luận