Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là gì

1. Khái niệm  toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế 

 1.1. Khái niệm  toàn cầu hóa 

 Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 đã làm thay đổi trật tự của hệ thống thế giới. Cùng với quá trình chuyển đổi, khái niệm “toàn cầu hóa” bắt đầu hình thành và được sử dụng rộng rãi. Các mối quan hệ và ràng buộc vượt ra ngoài quốc gia-quốc gia, đôi khi được cách điệu thành "siêu quốc gia", được gọi là quá trình quốc tế hóa. Hầu hết đều xuất phát từ nền tảng kinh tế, nhưng cũng có những mối quan hệ được xây dựng  bởi  tham vọng, lý tưởng chính trị mà không xuất phát từ nền tảng kinh tế - xã hội thực tế. Các quốc gia dân tộc đã thực sự trưởng thành đến mức tham gia một cách có ý thức vào  quá trình  hình thành hệ thống thế giới mới. Nó mở đường cho sự hình thành  hệ thống  thế giới. Về mặt khái niệm, đây là lúc khái niệm “quốc tế hóa” được thay thế bằng khái niệm “toàn cầu hóa”. 

 

 Toàn cầu hóa là quá trình hình thành một nền chính trị thế giới thống nhất. Đó là sự ảnh hưởng, tác động và thâm nhập lẫn nhau xuyên biên giới trên các lĩnh vực  của đời sống xã hội, trước hết  là  lĩnh vực kinh tế,  vận hành trong một trật tự hệ thống toàn cầu. 

 

 Toàn cầu hóa có thể được coi là một quá trình lịch sử tự nhiên. Roland Robertson là người đi đầu trong khái niệm này. Ông gọi đó là quá trình hội tụ toàn cầu quy mô lớn, trái ngược với các quy trình quy mô nhỏ hơn diễn ra ở cấp quốc gia hoặc địa phương. Hàm ý của R. Robertson là lịch sử  thế giới tuân theo một quá trình củng cố, thông qua sự hình thành các thực thể xã hội lớn dần lên - mà lớn nhất là thực thể toàn cầu - và  trong quá trình hình thành  thực thể trung gian đã  chứa đựng quá trình toàn cầu hóa, dưới hình thức của một chỉ số. Ông cho rằng quá trình toàn cầu hóa bắt đầu ở châu Âu vào đầu thế kỷ 15. 

 Nó lan rộng ra ngoài châu Âu từ giữa thế kỷ 18. Robertson chia quá trình này thành hai giai đoạn: từ 1750 đến 1870 là “thời kỳ phôi thai toàn cầu hóa”, và từ 1870 đến những năm 1920  là giai đoạn thiết yếu của  “cất cánh” dẫn đến việc thành lập một xã hội thế giới. Hai giai đoạn này được xác định với sự pha trộn của  sự phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa và công nghệ. Từ cách tiếp cận xã hội học đối với tôn giáo, Robertson vẫn có cách nhìn khá biện chứng về quá trình toàn cầu hóa. Ông không coi đó là một quá trình đồng nhất toàn cầu, mà là một sự thâm nhập lẫn nhau giữa  toàn cầu  và  địa phương. Trong kinh doanh, nó được thể hiện bằng sự hợp tác toàn cầu nhằm đáp ứng nhu cầu của sản phẩm và thị trường  địa phương tùy theo  hoàn cảnh cụ thể, phù hợp với sự thay đổi  nhu cầu của người tiêu dùng. Từ đó, Robertson đưa ra khái niệm “glocalization” hay “toàn cầu hóa địa phương”. 

 

 Tóm lại, toàn cầu hóa kinh tế bao hàm sự di chuyển  tự do hơn và lớn hơn của hàng hóa, vốn, công nghệ và lao động qua biên giới quốc gia. Đó  là phương thức  giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển  sức sản xuất, là quá trình  cân đối cung cầu các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất, bao gồm vốn, công nghệ, quản lý, lao động và tài sản nhằm tối ưu hóa việc phân phối và sử dụng các yếu tố này trên một nền kinh tế. quy mô toàn cầu.  

 Như vậy, toàn cầu hóa là một quá trình khách quan của xã hội loài người. Trên thế giới chỉ có một quá trình toàn cầu hóa trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau, mỗi quốc gia - nhất là các nước đang phát triển khác - không  có sự lựa chọn nào khác: tẩy chay toàn cầu hóa này hoặc tất cả cùng tham gia với bên kia, hoặc chờ đợi một làn sóng toàn cầu hóa mới. toàn cầu hóa để làm việc có lợi cho bạn. Việt Nam cũng không  ngoại lệ. Tổng thư ký Liên hợp quốc Kofi Anan đã nói “ Những người thua cuộc thực sự trong một thế giới còn rất nhiều bất bình đẳng ngày nay không phải là những người đã phải đối mặt quá nhiều với toàn cầu hoá mà là những người bị gạt ra lề của quá trình ấy”. Thủ tướng Phan Văn Khải cũng không chỉ rõ: “Chúng ta cần cùng nhau tìm ra các biện pháp nhằm tối đa hoá các mặt tích cực và tối thiểu hoá các mặt tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá, đặc biệt là ngăn chặn sự phát triển của đói nghèo tại các nước đang phát triển vì các nước này tham gia vào quá trình toàn cầu hoá là nhằm đạt được một sự phát triển ổn định và bền vững”.  

 1.2. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế 

 Tác Động Của Toàn Cầu Hóa Và Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế 

 Thuật ngữ “hội nhập quốc” tế trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ tiếng nước ngoài (tiếng Anh là “international integration”, tiếng Pháp là “intégration internationale”). Đây là một khái niệm được sử dụng chủ yếu trong các lĩnh vực chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng giữa thế kỷ trước ở châu Âu, trong bối cảnh những người theo trường phái thể chế chủ trương thúc đẩy sự hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (Đức-Pháp) nhằm tránh nguy cơ tái diễn chiến tranh thế giới thông qua việc xây dựng Cộng đồng châu Âu. 

 

 Hội nhập kinh tế quốc tế là gì, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế giới, là việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo nghĩa này, hội nhập kinh tế đã diễn ra  hàng nghìn năm  và hội nhập kinh tế trên phạm vi toàn cầu đã diễn ra từ  hai nghìn năm trước khi đế chế La Mã xâm lược thế giới, mở rộng mạng lưới giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng hóa. trong suốt quá trình chiếm đóng rộng lớn của họ, và  đặt  tiền đúc của họ ở khắp mọi nơi.  

 Trong các giáo trình nhập môn về kinh tế  quốc tế, hội nhập kinh tế thường được cho là có 6 cấp độ: khu vực/hiệp định thương mại ưu đãi, khu vực/hiệp định thương mại tự do, liên minh hải quan, thị trường chung, liên minh kinh tế và tiền tệ, và hội nhập toàn cầu. Tuy nhiên, trên thực tế, mức độ tích hợp có thể ngày càng đa dạng. Hội nhập kinh tế có thể là song phương - tức là giữa hai nền kinh tế, hoặc khu vực - tức là giữa một nhóm các nền kinh tế, hoặc đa phương - tức là  toàn cầu như  Tổ chức Thương mại Thế giới đang làm. 

 Hội nhập quốc tế là  quá trình phát triển tất yếu, do tính chất xã hội của  quan hệ lao động, quan hệ con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường cũng là động lực chính của quá trình hội nhập. Hội nhập diễn ra dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo quy trình từ dưới lên. Hội nhập đã trở thành  xu thế lớn trong thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến các quan hệ quốc tế và đời sống của mỗi quốc gia. Ngày nay, hội nhập quốc tế là sự lựa chọn chính trị của hầu hết các quốc gia để phát triển.  

 Tìm hiểu thêm về khái niệm và vai trò của lập kế hoạch kinh doanh.  

 2. Nhận thức về toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế 

 2.1. Nhận thức về toàn cầu hóa 

 Toàn cầu hóa làm cho các nền kinh tế quốc gia hoà nhập vào và được cấu trúc lại trên quy mô quốc tế thông qua một loạt quy trình, giao lưu, trao đổi Như vậy, toàn cầu hoá không chỉ là sự phụ thuộc lẫn nhau, dù là phụ thuộc toàn diện giữa các nền kinh tế mà là sự hoà nhập các nền kinh tế này để xu thế hình thành nên một nền kinh tế toàn cầu thống nhất.  

 Ngày nay toàn cầu hoá mà trước hết và về thực chất là toàn cầu hoá kinh tế đang trở thành một xu thế chủ yếu của quan hệ kinh tế hiện đại. Hiện nay tuy có rất nhiều những quan niệm không giống nhau về toàn cầu hoá kinh tế nhưng có thể thấy nét chung nhất là thừa nhận mối quan hệ qua lại của các hoạt động kinh tế hiện nay đã bao trùm gần như tất cả các nước trên thế giới vượt qua khỏi biên giới quốc gia, hướng tới phạm vi toàn cầu trên cơ sở lực lượng sản xuất cũng như trình độ khoa học kỹ thuật mạnh mẽ và sự phân công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, tính chất xã hội hoá của sản xuất càng ngày càng tăng. 

  Toàn cầu hoá kinh tế chính là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất, sự gia tăng của xu thế này được thể hiện ở sự mở rộng mức độ và qui mô mậu dịch thế giới, sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu.  Toàn cầu hóa kinh tế chịu tác động của quá trình quốc tế hóa sản xuất và cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật không ngừng thay đổi, sự phụ thuộc và bổ sung lẫn nhau của nền kinh tế các nước ngày càng phát triển, yếu kém và yếu tố cản trở sản xuất  ngày càng mất đi trước sự lưu chuyển tự do của giao thông toàn cầu. Mặc dù vậy, toàn cầu hóa kinh tế vẫn còn ở  giai đoạn sơ khai. Lĩnh vực then chốt của hợp tác toàn cầu hóa kinh tế vẫn chỉ là thương mại, sự di chuyển tự do của vốn và  lao động vẫn là một vấn đề cho tương lai.  

 2.2. Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế 

 Nhận thức chung về hội nhập kinh tế quốc tế Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta  thấy rằng nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế vẫn mang tính thời sự. Các nước đều khẳng định cần xây dựng nhận thức thống nhất trong nội bộ rằng hội nhập là cần thiết, phù hợp với xu thế chung, nhất là việc nước ta  tham gia WTO sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đất nước. : 

 

 Hội nhập kinh tế quốc tế là  quá trình tất yếu, là xu thế toàn cầu mà trọng tâm là mở cửa nền kinh tế, tạo điều kiện để kết hợp tốt nhất các nguồn lực trong nước và quốc tế, mở rộng không gian  phát triển và chiếm  vị trí thích hợp nhất có thể trong quan hệ kinh tế quốc tế. Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế vừa là yêu cầu khách quan, vừa là sự tất yếu bên trong đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Khi  gia nhập WTO, họ phải tận dụng các cơ hội thương mại để có tiếng nói trong quá trình định hình các luật lệ kinh tế và thương mại quốc tế có lợi cho mình. 

  Không thể trốn tránh  hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng vấn đề mấu chốt là  phải nhận thức trước, tính đúng những chi phí phải trả cho việc tổ chức và vận hành các điều ước quốc tế,  đề ra  chính sách, biện pháp tốt để hạn chế đến mức thấp nhất nguồn cung và tận dụng tối đa các cơ hội  phát triển.  

 Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là tham gia cạnh tranh  quốc tế và ngay cả trong thị trường nội khối. Để hội nhập kinh tế quốc tế  hiệu quả, cần nỗ lực tăng cường nội lực, đổi mới, điều chỉnh cơ chế, chính sách, pháp luật, tập quán kinh doanh và cơ cấu kinh tế quốc gia phù hợp với 'luật chơi chung' của hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này không có nghĩa là các nước bắt buộc phải cải cách, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế mà là cải cách và hội nhập kinh tế quốc tế  vì sự phát triển của mình. Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế phải dựa trên cơ sở và gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển  đất nước, đồng thời cải cách kinh tế và cải cách hành chính phải gắn chặt với yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đổi mới trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế là “con đường hai chiều”. Cải cách bên trong quyết định tốc độ và hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế,  hội nhập kinh tế quốc tế sẽ hỗ trợ, thúc đẩy quá trình cải cách bên trong, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Cần  nhận thức rằng dù có hội nhập kinh tế quốc tế hay không thì cải cách vẫn tiếp tục  mạnh mẽ hơn, nhanh hơn vì sự phát triển của chính mình.  

 Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế-xã hội, làm tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia; thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý và các nguồn lực quan trọng khác; tạo thêm nhiều việc làm; nâng cao dân trí và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.  

 Hội nhập kinh tế quốc tế đã đóng góp quan trọng vào việc mở rộng và đưa quan hệ của nước ta với các đối tác đi vào chiều sâu, tạo thế đan xen lợi ích, góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế. 

  Hiện nay, tình hình trong nước, khu vực và thế giới đã có nhiều thay đổi, đang diễn biến phức tạp, khó lường. Bên cạnh thời cơ, thuận lợi, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong phát triển kinh tế-xã hội, khả năng bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị-xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, môi trường sinh thái, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.  

 Hội nhập kinh tế quốc tế không phải để được hưởng ưu đãi, nhân nhượng đặc biệt. Hội nhập kinh tế quốc tế là mở rộng các cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường, có môi trường pháp lý và kinh doanh ổn định dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế hội nhập kinh tế quốc tế, không bị phân biệt đối xử, không bị các động cơ chính tị hay những lý do khác cản trở việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. Từ ổn định về thị trường, các nước sẽ có điều kiện thuận lợi để xây dựng kế hoạch đầu tư, sản xuất, kinh doanh ổn định dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế hội nhập kinh tế quốc tế, không bị phân biệt đối xử, không bị các động cơ chính trị hay những lý do khác cản trở việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. Ngoài ra, các nước có thể sử dụng những luật lệ, quy định, cơ chế giải quyết tranh chấp của các thể chế hội nhập kinh tế quốc tế để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. 

  Cần tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, nhằm giải thích cho các tổ chức, cơ quan, đoàn thể, doanh nghiệp, người dân… về hội nhập kinh tế quốc tế để chúng ta có thể chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Bộ Công Thương đã xây dựng “Đề án tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về hội nhập kinh tế quốc tế”, với mục tiêu triển khai sâu rộng, với sự tham gia phối hợp của tất cả các bộ, ngành và các cơ quan liên quan, nhằm tạo sự lan toả trong xã hội; quán triệt những nhiệm vụ của giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế mới, quán triệt quan điểm về tuyên truyền trong giai đoạn mới, với nhiều nội dung mới.  

th?id=OIP

3. Tác động của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam 

 3.1. Cơ hội 

 Toàn cầu hóa đem lại những cơ hội to lớn cho nền kinh tế thế giới và cho mỗi quốc gia tham gia vào quá trình hội nhập: 

 

 Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh, thúc đẩy việc tham gia  phân công lao động quốc tế, hưởng lợi từ sự phân bổ  hợp lý các nguồn lực trên bình diện quốc tế, từ đó phát triển để khai thác tối đa các yếu tố sản xuất có ích của mỗi nước. 

 Tự do hóa lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ và vốn với việc hạ thấp hàng rào thuế quan, đơn giản hóa  thủ tục và giảm kiểm soát hành chính sẽ góp phần giảm chi phí sản xuất và đầu tư, tăng khối lượng và giảm chi phí thất nghiệp,  tăng  lợi ích cho người tiêu dùng.  

 Toàn cầu hóa tạo ra nhiều cơ hội đầu tư mới, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn và tạo điều kiện  đa dạng hóa các loại hình đầu tư, từ đó  nâng cao hiệu quả và giảm rủi ro đầu tư.  

 Toàn cầu hóa thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, chuyển giao vốn và kỹ năng quản lý, từ đó mở rộng địa bàn đầu tư cho các nước phát triển và giúp các nước tiếp nhận  cơ hội phát triển.  3.2. Thử thách 

 Thách thức đầu tiên là sự bất ổn  của thị trường tài chính quốc tế. Thật vậy, có một sự khác biệt cơ bản giữa vốn công nghiệp và vốn tài chính, hay nói cách khác là sự khác biệt giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư tài chính. Các nhà đầu tư trực tiếp đã bỏ tiền ra xây dựng nhà máy, không dễ gì một sớm một chiều có thể rút  vốn đầu tư. Đồng thời, các nhà đầu tư tài chính được hưởng lợi từ tính linh hoạt cao hơn nhờ khả năng chuyển nhượng cao của chứng khoán. Mặt khác, nguồn lực tài chính  phân bố không  đều, tập trung ở một số trung tâm tài chính lớn là các nước công nghiệp phát triển  đầu tiên trên thế giới. Quá trình hội nhập và toàn cầu hóa tạo điều kiện cho dòng vốn luân chuyển lớn hơn và tất nhiên, rủi ro cũng tăng lên. 

 Rủi ro tiếp theo là sự chậm trễ của một số quốc gia. Một số nước đã tận dụng được lợi ích của hội nhập thương mại quốc tế và thị trường tài chính quốc tế, phát huy  lợi thế so sánh, từ đó thúc đẩy tăng trưởng, mở rộng thương mại, từng bước thu hẹp  khoảng cách với các nước phát triển,  một số nước khác chưa hội nhập được của phát triển thương mại, thu hút vốn đầu tư, và hệ quả tất yếu  sẽ bị đẩy lùi xa hơn, đồng tiền của chính sách tiền tệ - tài chính của các nước yếu  phụ thuộc vào chính sách của các nước mạnh. 

 Nguy cơ của  toàn cầu hóa  là xu hướng hình thành thế độc quyền, tập trung quyền lực vào một số ít đầu sỏ quốc tế. Xu hướng sáp nhập đang diễn ra với tốc độ chưa từng có trong lịch sử phát triển kinh tế toàn cầu hiện đại. Vì vậy, đâu là kết thúc của xu hướng hợp nhất này? Bởi  nếu xu hướng sáp nhập tiếp tục phát triển chắc chắn sẽ tác động tiêu cực đến thị trường cạnh tranh hoàn hảo, yếu tố đã giúp thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong nhiều thế kỷ qua. 

  Quá trình phát triển toàn cầu  phải giảm dần thuế và xóa bỏ hàng rào phi thuế quan, tức là xóa bỏ  rào cản thương mại, khi đó hàng hóa nước ngoài sẽ tràn vào, bóp nghẹt hoạt động sản xuất và thương mại trong nước.  

 Quá trình toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng đang phá bỏ hàng rào bảo hộ của các nước. Vì vậy, các quốc gia không chỉ chịu tác động tích cực từ quá trình này mà còn  chịu những cú sốc đối với hệ thống kinh tế toàn cầu trên các lĩnh vực tiền tệ, tài chính, hàng hóa… Cộng với chính sách kinh tế vĩ mô chưa đủ cởi mở theo thể chế quốc tế, bộ máy hành chính quan liêu càng nặng nề. tham nhũng, hệ thống tài chính ngân hàng  càng lạc hậu thì càng bị ảnh hưởng nặng nề. Quá trình toàn cầu hóa đang phát triển, không chỉ  các lực lượng kinh tế tiến bộ tham gia vào quá trình này mà  cả các thế lực phản động, mafia, các tổ chức khủng bố…  đang lan rộng trên toàn thế giới, các đường dây buôn bán ma túy  len lỏi đến tận trường học. Các thế lực phản động cũng không bỏ lỡ  cơ hội xâm nhập  nước ta, phá hoại đường lối chính nghĩa là phòng và chống bằng mọi biện pháp diệt trừ. Nhưng vì điều này, không thể  đóng cửa đất nước hoặc hạn chế sự hội nhập của đất nước vào quá trình toàn cầu hóa. 

  Toàn cầu hóa đã phân bổ cơ hội và lợi ích một cách không cân xứng giữa các khu vực, giữa các quốc gia và trong các nhóm dân cư. Do đó, TCH làm  tăng  bất bình đẳng và phân hóa giàu nghèo.  Với việc hội nhập kỹ thuật, công nghệ hiện đại được  nhập khẩu tạo cơ hội, nâng cao năng suất lao động, đồng thời  dòng sản phẩm, dịch vụ của các nước phát triển sẽ có ưu thế  lấn át sản phẩm của các nước kém phát triển. Từ đó nảy sinh cạnh tranh gay gắt,  thất nghiệp, phá sản và các vấn đề xã hội tồi tệ hơn nảy sinh. Toàn cầu hóa mang lại tăng trưởng kinh tế, nhưng nó để lại những hậu quả về xã hội và môi trường  (mất  bản sắc dân tộc đối với  trẻ em sinh ra ở nước ngoài, ví dụ: một số trẻ em  sống ở nước ngoài ngày nay không  nói được tiếng Anh). nguồn gốc của ông bà của họ? ; Tây hóa, Mỹ hóa trên chính quê hương  mình VD: at)

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo