Hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác có phải là chủ thể của quan hệ dân sự không? Trách nhiệm dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác và các tổ chức phi pháp nhân khác.

1. Hộ gia đình, tổ hợp tác có phải là chủ thể của quan hệ dân sự không?
Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
Tiết 101. Chủ thể trong quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân
Trong trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân phải tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải bằng văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trong trường hợp thay đổi người đại diện thì phải thông báo cho các bên trong quan hệ dân sự.
Trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự không được các thành viên khác ủy quyền làm đại diện thì thành viên đó là chủ thể của việc dân sự do mình xác lập, thực hiện.
Như vậy, điều luật trên không thừa nhận hộ gia đình, tổ hợp tác là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Việc không thừa nhận tư cách chủ thể của hộ gia đình, tổ hợp tác xuất phát từ các lý do sau đây:
- Thứ nhất, các thành viên của hộ gia đình thường xuyên có sự thay đổi (do tách, nhập, sinh, tử, kết hôn...) nên việc xác định thành viên của hộ gia đình khi có tranh chấp để xác định quyền và nghĩa vụ gặp nhiều khó khăn.
- Thứ hai, khó xác định “tài sản chung của hộ gia đình”, “lợị ích chung” của hộ gia đình khi tham gia quan hệ dân sự và điều đó gây khó khăn trong việc xác định trách nhiệm dân sự của cá nhân hay trách nhiệm dân sự của hộ gia đình.
- Thứ ba, về tổ hợp tác, hiện nay có gần 80% tổ hợp tác không đăng ký chứng thực và các quy định về tổ hợp tác hiện nay gây nhiều khó khăn trong việc xác định tư cách pháp lý của tổ hợp tác, phân định trách nhiệm dân sự của tổ hợp tác và trách nhiệm dân sự của từng thành viên tổ hợp tác.
- Thứ tư, việc chỉ quy định chủ thể quan hệ pháp luật dân sự gồm có cá nhân và pháp nhân là phù hợp thông lệ quốc tế.
Mặc dù không thừa nhận tư cách chủ thể của hộ gia đình, tổ hợp tác, nhưng để phù hợp với thực tiễn, thì Điều luật này vẫn ghi nhận, trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải bằng văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trong trường hợp thay đổi người đại diện thì phải thông báo cho các bên trong quan hệ dân sự.
Trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự không được các thành viên khác ủy quyền làm đại diện thì thành viên đó là chủ thể của việc dân sự do mình xác lập, thực hiện.
2. Việc xác định các vấn đề quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình sử dụng đất.
Đối với hộ gia đình sử dụng đất, đây là trường hợp đặc thù áp dụng cho quan hệ pháp luật về đất đai.
Khoản 29 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 quy định: “Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhăn và gia đĩnh, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đẩt; nhận chuyển quyền sử dụng đất. Việc xác định chủ thể của quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình sử dụng đất được thực hiện theo quy định của Luật đất đai.
Điểm c khoản 1 Điều 5 Thông tư 23/2014/TT-BTNMT quy định ghi tên tại trang 1 của Giấy chứng nhận như sau:
“Hộ gia đình sử dụng đất thì ghi "Hộ ông" (hoặc "Hộ bà"), sau đó ghi họ tên, năm sinh, tên và số của giấy tờ nhân thân của chủ hộ gia đình như quy định tại Điểm a Khoản này; địa chỉ thường trú của hộ gia đình. Trường hợp chủ hộ gia đình không có quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì ghi người đại diện là thành viên khác của hộ gia đình có chung quyền sử dụng đất của hộ gia đình"
Trường hợp chủ hộ gia đình hay người đại diện khác của hộ gia đình có vợ hoặc chồng cùng có quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì ghi cả họ tên, năm sinh của người vợ hoặc chồng đó”
Tại khoản 2, Điều 64 của Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 có quy định:
“Hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của nhóm người sử dụng đất, nhóm chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất phải được tất cả các thành viên trong nhóm ký tên hoặc có văn bản ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự, trừ trường hợp các chủ sở hữu căn hộ cùng sử dụng chung thửa đất trong nhà chung cư”. Khoản 5 Điều 14 Thông tư 02/2015/TT-BTNMT quy định:
“Người có tên trên Giấy chứng nhận hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật dân sự quy định tại Khoản 1 Điều 64 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP không được ký kết hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền của mình' quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất khi đã được các thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất đồng ý bằng văn bản và văn bản đó đã được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật'
Theo đó, trường hợp hộ gia đình là chủ sử dụng đất thì khi chuyển nhượng, tặng cho... phải được sự đồng ý của các thành viên trong hộ gia đình bằng văn bản, có công chứng hoặc chứng thực.
3. Xác định tài sản của hộ gia đình, tổ hợp tác.
Bộ luật Dân sự có các quy định sau:
Điều 102. Tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân
Đầu tiên. Việc xác định tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, quyền và nghĩa vụ đối với tài sản đó được xác định theo quy định tại Điều 212 của Bộ luật này.
- Việc xác định di sản chung của các thành viên trong tổ hợp tác, quyền và nghĩa vụ đối với di sản này được xác định theo quy định tại Điều 506 của Bộ luật này.
- Việc định đoạt tài sản chung của các thành viên của tổ chức không hợp nhất khác, quyền và nghĩa vụ đối với tài sản đó do các thành viên thoả thuận xác định, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Việc xác định tài sản chung của các thành viên trong hộ gia đình, quyền và nghĩa vụ đối với tài sản này được xác định theo quy định tại Điều 212 BLDS 2015.
Điều 212 quy định về tài sản chung của các thành viên trong gia đình, theo đó:
Điều 212. Sở hữu chung của các thành viên trong gia đình
- Tài sản chung của các thành viên gia đình gồm tài sản do các thành viên đóng góp, chung tạo lập và tài sản khác được xác lập là tài sản theo quy định của Bộ luật này và quy định khác của luật có liên quan.
- Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trong trường hợp chuyển nhượng tài sản là bất động sản, động sản đã đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chính của gia đình, phải được sự đồng ý của tất cả thành viên trưởng thành và đầy đủ dân sự trong gia đình, trừ khi có quy định khác. bởi pháp luật.
nếu không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 213 của Bộ luật này.
Tài sản chung của các thành viên gia đình bao gồm tài sản do các thành viên đóng góp, chung tạo lập và tài sản khác được xác lập là tài sản theo quy định của Bộ luật này và quy định khác của luật có liên quan. . Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trong trường hợp chuyển nhượng tài sản là bất động sản, động sản đã đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chính của gia đình, phải được sự đồng ý của tất cả thành viên trưởng thành và đầy đủ dân sự trong gia đình, trừ khi có quy định khác. bởi pháp luật. Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định liên quan đến đồng sở hữu phần. Trừ trường hợp sở hữu chung giữa vợ và chồng.
Điều 209. Phân chia theo Điều
- Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà phần sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung.
- Mỗi chủ sở hữu chung có quyền và nghĩa vụ đối với hàng hóa thuộc sở hữu chung tương ứng với phần sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Việc xác định di sản chung của các thành viên trong tổ hợp tác, quyền và nghĩa vụ đối với di sản này được xác định theo quy định tại Điều 506 của Bộ luật dân sự. Như vậy, Điều 506 quy định tài sản chung do các thành viên góp, tạo lập và tài sản khác mà pháp luật có quy định là tài sản chung theo phần của các xã viên. Trong trường hợp có thỏa thuận về việc góp tiền mà thành viên hợp tác chậm trả thì phải chịu trách nhiệm trả lãi đối với số tiền chậm trả và phải sửa chữa thiệt hại. Việc định đoạt tài sản là quyền sử dụng đất, nhà ở, nhà xưởng sản xuất và tư liệu sản xuất khác phải được các thành viên thống nhất bằng văn bản, việc định đoạt các tài sản khác do đại diện của các thành viên xác định quyết định, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. . Đồng thời, Điều 506 cũng quy định các thành viên trong tổ hợp tác không được chia tài sản chung trước khi chấm dứt hợp đồng hợp tác, trừ trường hợp được tất cả các thành viên trong tổ hợp tác đồng ý.
4. Trách nhiệm của thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác và các tổ chức phi doanh nghiệp khác.
Hộ gia đình, tổ hợp tác và các tổ chức khác tham gia quan hệ dân sự thông qua việc các cá nhân là thành viên của hộ, nhóm xác lập, thực hiện. Việc tham gia các mối quan hệ này nhằm phục vụ lợi ích chung của hộ gia đình, tổ hợp tác và các tổ chức khác. Vì vậy, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ việc tham gia quan hệ dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân được bảo đảm bằng tài sản chung của các thành viên.
Bộ luật dân sự 2015 quy định:
Điều 103. Trách nhiệm dân sự của thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân
- Nghĩa vụ dân sự phát sinh từ việc tham gia quan hệ dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân được bảo đảm bằng tài sản chung của các thành viên.
- Khi các thành viên hợp danh không có hoặc không có đủ tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ chung thì người yêu cầu hợp danh có quyền yêu cầu các thành viên hợp danh thực hiện nghĩa vụ theo các điều kiện quy định tại Điều 288 của Bộ luật này.
- Trường hợp các bên không thỏa thuận, hợp đồng hợp tác hoặc pháp luật không có quy định khác thì các thành viên chịu trách nhiệm dân sự quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này theo phần tương ứng với phần đóng góp tài chính của mình. . không xác định theo phần tương ứng mà xác định theo phần chia đều.
Trong trường hợp tài sản của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác đủ để thanh toán các nghĩa vụ về sở hữu đối với chủ thể khác thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, trong trường hợp các thành viên hợp danh không có hoặc không đủ tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ chung thì chủ nợ có quyền yêu cầu các thành viên hợp danh thực hiện nghĩa vụ theo điều kiện quy định tại Điều 288 BLDS. Theo đó, nghĩa vụ giữa các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác và thành viên các tổ chức khác không có tư cách pháp nhân được xác định là nghĩa vụ liên đới. Chủ nợ có thể yêu cầu bất kỳ thành viên nào của hộ gia đình, tổ hợp tác thực hiện toàn bộ nghĩa vụ còn nợ. Khi một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu những người có nghĩa vụ liên đới khác và một số người phải thực hiện phần nghĩa vụ liên đới đối với mình.
5. Hậu quả pháp lý của hành vi dân sự do thành viên không có quyền đại diện xác lập.
Khi xác lập, thực hiện giao dịch nhân danh hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân thì người đại diện phải có thẩm quyền đại diện và phải thực hiện giao dịch trong phạm vi được ủy quyền. Trường hợp một người nhân danh hộ gia đình, tổ hợp tác thực hiện, xác lập giao dịch dân sự mà không phải là người đại diện cho hộ gia đình, tổ hợp tác thì hậu quả pháp lý của giao dịch được áp dụng theo quy định tại khoản 2 của luật này. . dưới:
Điều 104. Hậu quả pháp lý của hành vi dân sự do thành viên hợp danh không có quyền đại diện hoặc vượt quá phạm vi đại diện xác lập, thực hiện (Bộ luật Dân sự 2015)
- Trường hợp thành viên không có quyền đại diện nhưng xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhân danh thành viên khác trong hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác mà không có tư cách pháp nhân hoặc người được phép đại diện. thực hiện ngoài phạm vi đại diện thì hậu quả pháp lý của hoạt động đó được áp dụng theo quy định tại các điều 130, 142 và 143 của Bộ luật này.
- Giao dịch dân sự do bên không có quyền đại diện hoặc vượt quá phạm vi đại diện xác lập, thực hiện mà gây thiệt hại cho thành viên khác của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. thiệt hại.
Nội dung bài viết:
Bình luận