Tổ hợp tác là hình thức kinh tế hợp tác phổ biến ở Việt Nam, bao gồm ít nhất ba cá nhân có điều kiện sản xuất, kinh doanh giống nhau hợp tác với nhau để phát triển sản xuất. Uỷ ban nhân dân các xã, huyện, thị.

1.Tổ hợp tác
Nhóm hợp tác trong tiếng Anh là Cooperative Groups.
Theo quy định tại Điều 111 BLDS 2005:
Tổ hợp tác được thành lập trên cơ sở hợp đồng hợp tác có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, huyện, thị trấn gồm ba người trở lên cùng góp sức, của để hoàn thành nhiệm vụ nhất định. cùng có lợi, cùng có trách nhiệm là chủ thể trong quan hệ dân sự.
Tổ hợp tác được tổ chức và hoạt động theo Nghị định 151/2007/NĐ-CP ngày 10/10/2007 của Chính phủ. Theo quy định trên, cơ sở pháp lý để thành lập tổ hợp tác là hợp đồng hợp tác được ký kết giữa ít nhất ba người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Nội dung của hợp đồng này là sự cam kết giữa các tổ viên về việc đóng góp tài sản, công sức để thực hiện mong muốn hợp tác kinh doanh trong một hoặc nhiều ngành, nghề, đồng thời cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm về hoạt động của tổ hợp tác.
Hợp đồng thành lập tổ hợp tác phải có các nội dung cơ bản sau đây:
- Mục đích và thời hạn của hợp đồng hợp tác.
- Họ, tên, nơi cư trú của chủ nhiệm và các thành viên.
- Mức đóng góp sở hữu, chế độ phân chia hoa lợi, lợi tức giữa các thành viên.
- Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của trưởng nhóm và các thành viên.
- Điều kiện gia nhập, ra khỏi tổ hợp tác.
- Điều kiện giải thể tổ hợp tác.
Trường hợp tài sản không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của tổ hợp tác thì các thành viên liên đới chịu trách nhiệm theo phần tương ứng với phần tài sản đóng góp của mình. Như vậy, tổ hợp tác là một loại hình chủ thể kinh doanh chịu trách nhiệm vô hạn.
2. Tổ chức và quản lý tổ hợp tác
Trong hợp đồng hợp tác, các thành viên thỏa thuận cử một cán bộ làm đại diện cho tổ hợp tác để tham gia các giao dịch. Trưởng nhóm điều hành hợp đồng nhóm hợp tác. Trong trường hợp vắng mặt, để đảm bảo hoạt động bình thường của tổ, Tổ trưởng tổ hợp tác có thể ủy quyền cho một thành viên thực hiện một số công việc của tổ.
Nếu tài sản không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của nhóm thì các thành viên chịu phần không chia tương ứng với phần đóng góp bằng tài sản của mình.
Tổ viên có quyền quản lý, sử dụng tài sản của tổ hợp tác thông qua phương thức thương lượng, có quyền tham gia họp và biểu quyết quyết định các vấn đề của tổ. Trong quá trình tham gia biểu đạt, ý kiến của các thành viên đều có giá trị ngang nhau, không phân biệt chức năng và phần vốn góp.
Các thành viên của tổ hợp tác phải làm việc cho nhóm. Tuy nhiên, tổ hợp tác có thể thuê thêm lao động bên ngoài. Trong trường hợp này, tổ hợp tác phải ký kết hợp đồng với người không phải là thành viên để thực hiện công việc nhất định và đảm bảo quyền lợi cho người lao động theo quy định của pháp luật về lao động.
Nội dung bài viết:
Bình luận