Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp nào? [2024]

1. Quy định chung về tổ chức tín dụng 

 Về mặt kinh tế, đối tượng thương mại và nghiệp vụ chủ yếu của tổ chức tín dụng là tiền tệ và đây là dấu hiệu  phân biệt tổ chức tín dụng với các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế quốc dân.  

Về mặt pháp lý, tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng thuộc phạm vi điều chỉnh của luật các tổ chức tín dụng và chịu sự quản lý công khai của Ngân hàng Nhà nước.  Căn cứ vào phạm vi hoạt động kinh doanh, các tổ chức tín dụng được  chia thành hai loại: tổ chức tín dụng là ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng.  

Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được phép thực hiện toàn bộ các nghiệp vụ  ngân hàng thương mại. Tổ chức tín dụng là ngân hàng có phạm vi  kinh doanh không hạn chế, như tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Ngoài hoạt động  ngân hàng, tổ chức tín dụng là ngân hàng còn được tham gia một số hoạt động kinh doanh khác như bảo quản tài sản quý hiếm, tư vấn tài chính, v.v. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được phép tham gia một số hoạt động ngân hàng như hoạt động kinh doanh thông thường, nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn hoặc làm dịch vụ thanh toán.  

Căn cứ vào  hình thức sở hữu, các tổ chức tín dụng được chia thành các loại sau: 

 1) Tổ chức tín dụng đại chúng; 

 2) Tổ chức tín dụng cổ phần; 

 3) tổ chức tín dụng hợp tác; 

 4) Các tổ chức tín dụng có sự tham gia của nước ngoài.  

Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp nào

Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp nào

 

 2. Khái niệm tổ chức tín dụng 

 Khi nền sản xuất hàng hoá hình thành và phát triển thì tiền  xuất hiện và hoạt động kinh doanh tiền tệ  ra đời. Sự phát triển của  kinh doanh tiền  dẫn đến sự ra đời của các tổ chức chuyên thực hiện các hoạt động nhằm thu gom vốn nhàn rỗi trong xã hội và sử dụng để cấp tín dụng, thực hiện các dịch vụ tiền tệ khác, người ta gọi  là liên hiệp tín dụng. Ngày nay, các tổ chức tín dụng với nhiều loại hình và tên gọi khác nhau, hoạt động kinh doanh ngày càng đa dạng.  Hoạt động tín dụng là hoạt động  nghiệp vụ của tổ chức tín dụng. Ngoài ra, đối với tổ chức tín dụng  doanh nghiệp đa năng, bên cạnh các hoạt động  kinh doanh truyền thống, nó còn tham gia vào các hoạt động kinh doanh phi truyền thống khác như kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm,…. trong đât nươc của chung ta. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, Luật sửa đổi, bổ sung năm 2017 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 16 tháng 6 năm 2010, cụ thể như sau:

Điều 4. Giải thích từ ngữ

Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tỉn dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vỉ mô và quỹ tín dụng nhân dân".

Về bản chất, tổ chức tín dụng là một doanh nghiệp. Tuy nhiên, các tổ chức tín dụng có những đặc điểm riêng mà trên cơ sở đó có thể nhận biết và phân biệt  với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực, ngành nghề khác của nền kinh tế.

Thứ nhất, tổ chức tín dụng là doanh nghiệp có đối tượng kinh doanh trực tiếp là tiền tệ.

Thứ hai, tổ chức tín dụng là doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh chính, thường xuyên và mang tính nghề nghiệp là hoạt động ngân hàng. Đây là dấu hiệu cơ bản để phân biệt doanh nghiệp là tổ chức tín dụng với các loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác. Nội dung kinh doanh chủ yếu của tổ chức tín dụng là kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ: Nhận tiền gửi; cấp tín dụng; Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.

Đặc điểm này có tầm quan trọng quyết định  đối với hệ thống quy định về quyền tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng. Do hoạt động ngân hàng do các tổ chức tín dụng thực hiện phần lớn là hoạt động thương mại có tính rủi ro cao do mở rộng các mối quan hệ kinh doanh. Những tác động tích cực và tiêu cực của hoạt động  của các tổ chức tín dụng thường là phản ứng dây chuyền. Ví dụ, một tổ chức tín dụng  không thu hồi được vốn có thể dẫn đến  mất khả năng thanh toán của người gửi tiền. Những người gửi tiền khác có thể vì hoảng sợ mà tìm đến các tổ chức cho vay để rút tiền gửi, đẩy các tổ chức cho vay vào tình trạng mất khả năng thanh toán...

Thứ ba, tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp chịu sự quản lí nhà nước của Ngân hàng nhà nước Việt Nam và thuộc phạm vi áp dụng pháp luật ngân hàng (Cụ thể là Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010).

Ngày nay, ở tất cả các nước, nhà nước đều giao cho NHTW chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng và  hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế. Chịu sự quản lý công khai của Ngân hàng Nhà nước là dấu hiệu  nhận biết tổ chức kinh tế là tổ chức tín dụng. Bởi vì, theo phân cấp quản lý nhà nước, các tổ chức kinh tế kinh doanh  các lĩnh vực hoạt động khác chịu sự quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước khác. Chẳng hạn, công ty chứng khoán chịu sự quản lý nhà nước của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, các doanh nghiệp, tổ chức  thương mại chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Công Thương V.V. Do  đặc thù  hoạt động thương mại của mình, các tổ chức tín dụng nên các Nhà nước có  quy định riêng áp dụng đối với các tổ chức tín dụng. Ngoài ra, tùy theo tính chất sở hữu của từng tổ chức tín dụng cụ thể mà áp dụng các dịch vụ pháp lý khác có liên quan. Điềm báo'. Tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần  chịu sự điều chỉnh của cả luật  ngân hàng và luật  công ty cổ phần.  Thông thường, pháp luật về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng ở các nước đều quy định rõ ràng các nguyên tắc áp dụng pháp luật đối với tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng. Ví dụ: 

 - Điều 2 Luật Ngân hàng Thương mại  Trung Quốc năm 1995 quy định: Ngân hàng thương mại được thành lập theo Luật Ngân hàng Thương mại và Luật Công ty của  Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.  

- Điều 3 Luật Các tổ chức tín dụng  Việt Nam năm 2010 quy định: 

 “Điều 3. Áp dụng pháp luật về các tổ chức tín dụng, điều ước quốc tế, tập quán thương mại quốc tế và pháp luật có liên quan

Việc thành lập, tổ chức và hoạt động, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể tổ chức tín dụng; việc thành lập, tổ chức và hoạt động của chi nhảnh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tẻ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng phải tuân theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật này và các luật khác có liên quan về thành lập, tổ chức, hoạt động... thì áp dụng theo quy định của Luật này. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điểu ước quốc tế đó ”.

3. Các tổ chức tín dụng hoạt động dưới hình thức nào? 

 Các tổ chức tín dụng có thể hoạt động theo  Luật các tổ chức tín dụng  2010, bao gồm:

"Điều 6. Hình thức tổ chức của tổ chức tín dụng

Ngân hàng thương mại trong nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

Ngân hàng thương mại nhà nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ.

Tổ chức tín dụng phi ngân hàng trong nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.

Tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.

Ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân được thành lập, tổ chức dưới hình thức hợp tác xã.

Tổ chức tài chính vi mô được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn".

VÌ THẾ: 

 - Đối với ngân hàng thương mại quốc dân được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần. 

 - Đối với Home Bank, được thành lập theo mô hình  công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn cổ phần. 

- Tổ chức tín dụng phi ngân hàng có thể được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn.  

- Đối với  tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng  100% vốn nước ngoài  được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. 

 - Với các ngân hàng hợp tác xã và hiệp hội tín dụng  được thành lập dưới dạng hợp tác xã.  

- Tổ chức tài chính vi mô được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. 

4 Quyền của tổ chức tín dụng là gì?

 Tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng  2010 quy định về quyền của tổ chức tín dụng bao gồm: quyền hoạt động độc lập và quyền hoạt động ngân hàng.  

Quyền tự chủ hoạt động được quy định tại Mục 7 Luật các tổ chức tín dụng  2010, bên cạnh các nội dung khác như sau:

"Điều 7. Quyền tự chủ hoạt động

Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Không tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền từ chối yêu cầu cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ khác nếu thấy không đủ điều kiện, không có hiệu quả, không phù hợp với quy định của pháp luật".

Quyền hoạt động ngân hàng được quy định tại Điều 8 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, cụ thể như sau:

"Điều 8. Quyền hoạt động ngân hàng

Tổ chức có đủ điều kiện theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép thì được thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam.

Nghiêm cấm cá nhân, tổ chức không phải là tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động ngân hàng, trừ giao dịch ký quỹ, giao dịch mua, bán lại chứng khoán của công ty chứng khoán".

5. Ai là người đại diện theo pháp luật của tổ chức tín dụng?

 Người đại diện theo pháp luật của  tổ chức tín dụng được quy định  tại Điều lệ của  tổ chức tín dụng và phải  là một trong những người sau đây: 

 - Chủ tịch hội đồng quản trị hoặc chủ tịch hội đồng thành viên  tổ chức tín dụng.  

- Tổng giám đốc (giám đốc)  tổ chức tín dụng.  

Người đại diện theo pháp luật của  tổ chức tín dụng phải cư trú tại Việt Nam. Trường hợp người này vắng mặt  thì phải ủy quyền cho người khác làm người quản lý,  điều hành  tổ chức tín dụng. cư trú tại Việt Nam để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.  Điều này được quy định  tại Mục 12 của Luật các tổ chức tín dụng  2010, ngoài những điều khác như sau:

"Điều 12. Người đại diện theo pháp luật của tổ chức tín dụng

Người đại diện theo pháp luật của tổ chức tín dụng được quy định tại Điều lệ của tổ chức tín dụng và phải là một trong những người sau đây:

a) Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Chủ tịch Hội đồng thành viên của tổ chức tín dụng;

b) Tổng giám đốc (Giám đốc) của tổ chức tín dụng.

Người đại diện theo pháp luật của tổ chức tín dụng phải cư trú tại Việt Nam, trường hợp vắng mặt ở Việt Nam phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác là người quản lý, người điều hành của tổ chức tín dụng đang cư trú tại Việt Nam để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình".

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo