Tình tiết thành khẩn khai báo ăn năn hối cải

Tình tiết thành khẩn khai báo ăn năn hối cải

tai-xuong-12

 

Thứ nhất, để xác định tình tiết “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định một tình tiết hay hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì cần phải làm rõ khái niệm thế nào là “thành khẩn khai báo”, thế nào là “ăn năn hối cải” và cách hiểu của nhà làm luật khi dùng dấu phảy giữa “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải”.  

 Hiện nay, khái niệm “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” vẫn chưa được giải thích một cách chính thức bằng các văn bản pháp luật mà mới chỉ được giải thích thông qua các văn bản giải đáp nghiệp vụ. Chẳng hạn: 

 

 - Theo Sổ tay Thẩm phán năm 2009 của TANDTC thì: 

 

 Thành khẩn khai báo là trường hợp người phạm tội trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã khai đầy đủ và đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện. 

  Ăn năn hối cải là trường hợp sau khi thực hiện tội phạm, người phạm tội thể hiện sự cắn rứt, dày vò lương tâm về tội lỗi của mình không chỉ bằng lời nói mà còn phải bằng những hành động, việc làm cụ thể để chứng minh cho việc mình muốn sửa chữa, cải tạo thành người tốt; bù đắp những tổn thất, thiệt hại do hành vi phạm tội của mình gây ra.  

 Mức độ giảm nhẹ của việc thành khẩn khai báo phụ thuộc vào sự thành khẩn được thực hiện ở giai đoạn tố tụng nào và ý nghĩa thiết thực của sự thành khẩn trong việc giải quyết vụ án; mức độ giảm nhẹ của sự ăn năn hối cải phụ thuộc vào mức độ ăn năn hối cải của người phạm tội, những hành động, việc làm cụ thể chứng minh cho sự ăn năn hối cải đó.  - Theo Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của TANDTC, “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được hiểu là trường hợp người phạm tội thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. 

 Căn cứ vào những lý giải  trên, chúng ta có thể thấy “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” là hai tình tiết hoàn toàn độc lập, tách biệt và không có mối liên hệ với nhau. Tuy nhiên, theo  tôi, “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” là hai tình tiết có mối quan hệ biện chứng hữu cơ với nhau. Điều này được phản ánh trong ý nghĩa của các từ  được sử dụng. Theo từ điển tiếng Việt, “thành khẩn” có nghĩa là “rất thành thật  khai báo, nhận lỗi, hoặc tự phê bình và tiếp nhận lời phê bình”, còn “ăn năn” có nghĩa là “cảm thấy day dứt, đau xót trước lỗi lầm của mình”. Về mặt tâm lý, khi một người có thái độ thành khẩn thì chắc chắn họ đã nhìn nhận, đánh giá và nhận thức được lỗi lầm của mình để có thể khai báo  trung thực sự việc đã xảy ra. Suy nghĩ này, đánh giá này, nhận thức này  là một biểu hiện của sự ăn năn. Nếu họ không sám hối lỗi lầm  thì không thể có thái độ chân thành. Việc cho rằng một người khai báo đầy đủ nhưng  không biết hành vi của mình là tội phạm hoặc biết hành vi của mình là tội phạm nhưng  cho rằng mình không sai thì không thể coi là thành khẩn được vì hành vi đó không có  suy nghĩ. , đánh giá , nhận ra lỗi lầm của bản thân . Đó chỉ là câu nói đúng  về hành vi của mình chứ không hề có sự chân thành, tức là chỉ nói “thành công” chứ không nói “khẩn cấp”. Ngoài ra, chúng ta cũng nên lưu ý cách hiểu của nhà lập pháp khi sử dụng dấu phẩy giữa “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải”. Trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), nhà làm luật đã dùng dấu phẩy giữa “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải”. Cho đến BLHS năm 2015, nhà làm luật đã dùng từ “hoặc” giữa “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải”. Tuy nhiên, trong BLHS năm 2015, nhà làm luật  quay lại sử dụng dấu phẩy giữa “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” như trong BLHS năm 1999. Với việc sử dụng từ “hoặc”, nhà làm luật muốn nhấn mạnh vào “ thành khẩn khai báo” và “sám hối”. ” là hai khái niệm không liên quan  và được sử dụng độc lập.  

 Trong BLHS năm 2015 cũng có nhiều quy định được xây dựng theo cách dùng chữ “hoặc” nhằm nhấn mạnh đến tính độc lập khi sử dụng, chẳng hạn: “Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm” (điểm a khoản 1 Điều 51), “Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội” (điểm m khoản 1 Điều 52), “Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm” (điểm h khoản 1 Điều 52)… Việc BLHS năm 2015 không dùng chữ “hoặc” mà lại dùng dấu “,” giữa “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” đã cho thấy nhà làm luật không tách rời độc lập hai tình tiết“thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” mà muốn nhấn mạnh đây là hai tình tiết có liên quan chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau và người phạm tội chỉ có thể được hưởng tình tiết này khi thỏa mãn đồng thời cả “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải”. Điều này hoàn toàn phù hợp với ý nghĩa của từ ngữ được sử dụng để quy định tình tiết như đã phân tích nêu trên. 

  Từ những phân tích nêu trên, tôi nhận thấy “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” là hai tình tiết có mối quan hệ, mang tính chất hỗ trợ cho nhau nhằm nhấn mạnh thái độ và nhận thức của người phạm tội đối với hành vi mà mình đã thực hiện. Khi người phạm tội “thành khẩn khai báo” thì đồng thời, họ cũng“ăn năn hối cải” về hành vi phạm tội của mình. “Thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” phải luôn đi cùng nhau và không tách rời nhau, không thể chỉ có độc lập mỗi “thành khẩn khai báo” hoặc độc lập mỗi“ăn năn hối cải” nên tình tiết “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” chỉ quy định một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Người phạm tội muốn được hưởng tình tiết giảm nhẹ này thì phải thỏa mãn cả hai tình tiết “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải”. 

  Có ý kiến cho rằng do điểm d khoản 1 Điều 3 BLHS năm 2015 quy định: “Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra” nên “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” là hai tình tiết độc lập nhau. Theo tôi, đây là quan điểm không chính xác vì như đã phân tích ở trên, khi người phạm tội thỏa mãn tình tiết “thành khẩn khai báo” thì họ cũng đồng thời thỏa mãn tình tiết “ăn năn hối cải” nên việc quy định này không có ý nghĩa trong việc xác định “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” là hai tình tiết độc lập nhau. 

  Thứ hai, đối với trường hợp tại phiên tòa, bị cáo không khai báo trung thực mà phải đấu tranh, dùng mọi biện pháp, nghiệp vụ đến lúc bị cáo thấy không thể chối cãi được mới nhận tội, tôi cho rằng trong trường hợp này, bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”. Như đã phân tích ở trên, việc “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” phải xuất phát tự sự xoay chuyển tâm lý, người phạm tội phải nhận thức rõ lỗi lầm của mình để đi đến khai báo một cách trung thực sự việc đã xảy ra. Trong tình huống trên, vì không thể chối cãi, chứng cứ, tài liệu  đầy đủ nên bị cáo khai nhận, việc nhận tội, khai báo trung thực này không xuất phát từ việc họ nhận ra lỗi  của mình mà chỉ là sự khai nhận về nội dung  sự việc  xảy ra theo quy định. những gì mà cơ quan tố tụng có thẩm quyền  đã chứng minh và thu thập được. Vì vậy, họ không  được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”. 

  Thứ ba, trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang, tôi cho rằng người phạm tội vẫn được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”. Khi truy bắt người phạm tội quả tang, mặc dù hành vi của người phạm tội đã rõ ràng nhưng còn chưa  chi tiết, chính xác mà để giải quyết vụ án một cách khách quan, tổng thể  cần phải tiến hành  nhiều biện pháp khác. Nếu người phạm tội ăn năn hối cải đầy đủ, cụ thể, rõ ràng về hành vi phạm tội của mình  sẽ giúp cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhanh chóng giải quyết vụ án trong thời gian sớm nhất. Chẳng hạn, người phạm tội khai  cụ thể về nhân thân  (tiền án, tiền sự, gia đình...), khai  cụ thể về những người đồng phạm khác, khai  cụ thể về  hành vi phạm tội khác của họ... Do đó, họ vẫn được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. trách nhiệm pháp lý “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”.  

 Như vậy, tình tiết “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”  vẫn còn  nhiều quan điểm khác nhau nên cần  có sự hướng dẫn cụ thể của cơ quan tư pháp Trung ương để có thể áp dụng thống nhất một pháp luật, bảo đảm quyền lợi chính đáng. và sở thích. phạm nhân.



Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo