Tìm hiểu về Tam quyền phân lập của Mỹ

1. Khái niệm lý thuyết tam quyền phân lập 

 Các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được trao cho các cơ quan khác nhau của nhà nước: quyền lập pháp thuộc quốc hội, quyền hành pháp thuộc chính phủ và quyền tư pháp thuộc tòa án.  

 Tam quyền phân lập là sử dụng quyền lực để kiểm soát và kiểm soát quyền lực. Theo mô hình phân quyền của Montesquist, việc một cơ quan của nhà nước đứng trên hoặc sở hữu đầy đủ cả ba quyền là không thể chấp nhận được. 

 Mặt tích cực của học thuyết tam quyền phân lập là nó ngăn chặn được sự chuyên chế  dễ nảy sinh trong một xã hội mà sự thống trị thuộc về một thiểu số thành viên trong xã hội. Tư tưởng tam quyền phân lập  trở thành một trong những nội dung cơ bản của học thuyết nhà nước pháp quyền tư sản. 

  Tam quyền phân lập  hay còn được hiểu theo nghĩa tam quyền phân lập là một khái niệm đã được biết đến từ lâu nhờ sự ra đời của các bản Hiến pháp tư sản, cụ thể là Hiến pháp Mỹ. Các quy định của hiến pháp tạo cơ sở để thừa nhận sự tồn tại độc lập, sự kiềm chế lẫn nhau giữa ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp và được tổ chức song song, qua đó kiểm soát, giám sát hoạt động lẫn nhau. Theo thể chế này, không có cơ quan nào có quyền lực tuyệt đối đối với các hoạt động chính trị của đất nước. 

 Khái niệm này lần đầu tiên được đề xuất bởi nhà khoa học chính trị người Pháp  Charles de Secondat, Nam tước de Montesquieu. Khái niệm tam quyền phân lập sau đó được mở rộng sang cơ chế chính quyền của một quốc gia ít nhiều có ba nhánh quyền lực. 

 

Lập Pháp Hành Pháp Tư Pháp ở Mỹ
Lập Pháp Hành Pháp Tư Pháp ở Mỹ

 2. Quá trình hình thành học thuyết tam quyền phân lập 

 Sự phân chia quyền lực lần đầu tiên được giới thiệu bởi nhà triết học Hy Lạp vĩ đại Aristotle. Theo Aristotle, nhà nước quản lý xã hội theo ba phương thức: lập pháp, hành pháp và trọng tài. 

 Không có một loại  chính phủ nào  có thể phù hợp với mọi thời đại và mọi quốc gia. Ông phân loại chính quyền theo  số lượng (số lượng người cai trị) và chất lượng (mục đích cai trị) - kết hợp cả hai, chính phủ có thể được phân thành hai loại:  chính quyền (quân chủ, quý tộc, dân tộc, cộng hòa) và biến chất (độc tài, độc tài, dân chủ).  

 Bàn về thuyết “tam quyền phân lập” ngoài Aristotle còn có John Locke. Theo Người, quyền lực của Nhà nước là quyền lực của nhân dân. Người dân nhượng lại một số quyền của họ cho nhà nước thông qua các hợp đồng. Và để chống độc tài thì phải đặt ra sự phân quyền. Người thừa kế tư tưởng phân quyền của Aristotle, Locke tin rằng quyền lực nên được chia thành ba lĩnh vực: lập pháp, hành pháp và liên doanh. Ngay từ thế kỷ 18, nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp Montesquieu đã phát triển học thuyết tam quyền phân lập  thành một học thuyết độc lập. Tiếp thu và phát triển tư tưởng  thể chế chính trị tự do và chống độc tài, Mongtesquieu xây dựng lý thuyết phân quyền nhằm tạo ra thể chế chính trị bảo đảm quyền tự do của công dân. 

  Theo ông, quyền tự do chính trị của công dân là quyền  làm bất cứ điều gì pháp luật cho phép. Luật pháp là thước đo của tự do. Giống như Aristotle và J. Theo Locke và Mongtesquieu, một thể chế chính trị tự do là một thể chế  trong đó quyền lực tối cao được chia thành ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp. 

  Lập pháp: thể hiện ý chí chung của quốc gia. Nó thuộc sở hữu toàn  dân, giao cho hội nghị đại biểu nhân dân - Quốc hội 

 Hành pháp: Là việc thực hiện các luật  đã được thiết lập. 

 Công lý: đó là  trừng phạt tội phạm và giải quyết  xung đột giữa các cá nhân. Các thẩm phán được lựa chọn trong số những người dân và các bản án chỉ được đưa ra theo  luật.  Tư tưởng phân quyền của Mongtesquieu là một đối thủ đáng gờm của  chuyên chế phong kiến ​​và có thể nói chính ông là người đã phát triển và hoàn thiện học thuyết “tam quyền phân lập”. Học thuyết  phân chia quyền lực gắn  với học thuyết quy luật tự nhiên đã đóng vai trò quyết định trong lịch sử đấu tranh của giai cấp tư sản chống ách chuyên chế của nhà vua. 

 Cùng với sự hình thành của hệ thống tư bản chủ nghĩa, nguyên tắc “tam quyền phân lập” trở thành một trong những nguyên tắc lớn của chủ nghĩa hợp hiến tư sản,  được thể hiện đầu tiên trong các đạo luật  hiến pháp của  Cách mạng Pháp, sau đó được thể hiện đầy đủ trong Hiến pháp Mỹ năm 1787.  (thuyết “phân quyền”) với quyền lực Nhà nước được hiểu không phải là một đơn vị mà là một quyền lực được phân chia thành 3 quyền:  lập pháp, hành pháp và tư pháp, các quyền này  thực hiện độc lập với nhau, kiểm soát lẫn nhau. nhau và kiểm soát lẫn nhau. Trên thực tế, sự phân bổ quyền hạn trong bộ máy nhà nước được áp dụng khác ở thể chế cộng hòa tổng thống, theo nguyên tắc “kiềm chế và cân bằng”, tức là các quyền hạn kiểm soát, giám sát lẫn nhau, tạo ra sự cân bằng. giữa các quyền.  

 3. Giới thiệu chung về tư tưởng của Montesquieu 

 Trước  dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, mọi quyền lực của nhà nước đều tập trung vào  tay một cá nhân. Đây là căn nguyên của mọi hành vi độc tài, chuyên chế trong mọi công việc của nhà nước. Vì vậy, để chống lại chế độ này, một học thuyết của nhiều học giả tư sản đã được nêu ra, đó là học thuyết tam quyền phân lập. 

 Nguồn gốc của tư tưởng phân quyền đã có từ xa xưa ở phương Tây, điển hình là Nhà nước Athens và cộng hòa La Mã. Ý tưởng về sự phân quyền trong xã hội Hy Lạp cổ đại bắt nguồn từ Aristotle. Ông  quan niệm rằng trong bất kỳ nhà nước nào cũng cần  có những yếu tố bắt buộc: cơ quan lập pháp chịu trách nhiệm giám sát công việc của đất nước,  cơ quan hành pháp  và  tòa án, từ đó ông tách hoạt động của nhà nước ra làm ba thành phần: nghị án, chấp hành. và thử nghiệm. Tuy nhiên, tư tưởng của Aristotle mới chỉ giới hạn ở việc phân biệt các lĩnh vực hoạt động của nhà nước mà chưa chỉ rõ phương thức hoạt động cũng như mối quan hệ nội tại giữa các yếu tố này. 

 Những ý tưởng ban đầu về phân quyền  trong thời cổ đại đã phát triển thành học thuyết ở Tây Âu vào thế kỷ 17 và 18, gắn liền với hai nhà tư tưởng vĩ đại, John Locke và C.L. Montesquieu. 

  John Locke (1632 - 1704),  nhà triết học người Anh, ông là người đầu tiên viết một hệ thống lý luận hoàn chỉnh về học thuyết phân quyền, và được thể hiện trong tác phẩm "Luận thứ hai về chính trị phân quyền." Về quyền lực của nhà nước, ông lập luận rằng "chỉ có thể có một quyền lực tối cao,  cơ quan lập pháp, mà tất cả các quyền lực khác đều phải tuân theo quyền lực đó". Theo đó, có thể thấy Locke đồng nhất quyền lực nhà nước với quyền lập pháp. 

  Ông chia quyền lực nhà nước thành các bộ phận: lập pháp, hành pháp và liên minh. Do đó, quyền lập pháp là quyền lực cao nhất của nhà nước,  phải thuộc về quốc hội; Nghị viện phải  định kỳ thông qua  luật, nhưng không thể can thiệp vào việc thực hiện chúng. Quyền hành pháp phải thuộc về  vua. Nhà vua lãnh đạo việc thi hành pháp luật, bổ nhiệm các chức vụ, chánh án và các quan chức khác. Hoạt động của nhà vua phụ thuộc vào luật pháp  và ông không có đặc quyền  nào với quốc hội để ngăn cản ông nắm mọi quyền lực vào tay  và xâm phạm  các quyền tự nhiên của công dân. Nhà vua thực hiện quyền liên minh, nghĩa là giải quyết các vấn đề chiến tranh, hòa bình và đối ngoại.  Những lập luận  phân quyền của J. Locke  được nhà thám hiểm người Pháp C.L. Montesquieu (1689 - 1775) tiếp thu và phát triển mạnh mẽ. Montesquieu đã đi sâu phát triển lý thuyết về phân quyền, và sau này, khi nói đến phân quyền, chúng ta nghĩ ngay đến tên  ông.  

 Montesquieu kịch liệt lên án chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp lúc này. Chế độ quân chủ chuyên chế là một tổ chức quyền lực tồi, phi lý, bởi vì: Nhà nước tồn tại là biểu hiện  ý chí chung, còn trong chế độ chuyên chế, nó  biểu hiện ý chí cá biệt; chuyên chế với bản chất vô chính phủ và nhu cầu pháp luật. Montesquieu nhận ra rằng luật bao gồm nhiều lĩnh vực và bộ phận riêng biệt, vì vậy việc tập trung vào một người duy nhất là trái với bản chất của nó; Sự lạm quyền gắn liền với bản chất của chuyên  quyền. Vì vậy, việc giải quyết lạm quyền chỉ có thể đồng thời là  thanh toán bạo quyền. Theo Montesquieu, một khi quyền lực tập trung vào tay một người, thậm chí một người hoặc một tổ chức, thì nguy cơ chuyên chế vẫn còn. 

  Trong tác phẩm L'Esprit des lois, Montesquieu đề nghị một cách tế nhị và chặt chẽ về sự cần thiết phải phân chia quyền lực và khẳng định: “Ở bất kỳ quốc gia nào cũng có ba loại quyền lực: quyền lập pháp, quyền thi hành các quy định theo quy định của pháp luật. luật pháp quốc tế  và quyền thực thi các quy định của luật dân sự này”. Ta thấy tư tưởng phân quyền của Montesquieu so với Locke có sự tiến bộ, trong quá trình phân quyền tư pháp - quyền tư pháp độc lập với các  quyền khác.  

 Từ đó, Montesquieu chủ trương phân quyền để chống  chuyên chế, loại trừ lạm quyền, để chính quyền không làm hại  người bị trị và đảm bảo quyền tự do của người dân. Montesquieu đã viết: “Khi các quyền lập pháp và hành pháp được thống nhất trong tay một người hoặc một Thượng viện, thì  không còn tự do nữa, bởi vì người ta sợ rằng bản thân ông ta hoặc chính viện này sẽ chỉ đưa ra các quyết định của Thượng viện. pháp luật được thi hành một cách có thẩm quyền. Cũng không có  tự do nếu cơ quan tư pháp không tách rời khỏi quyền lập pháp và hành pháp. Nếu nhầm lẫn quyền tư pháp  với quyền lập pháp thì chúng ta sẽ độc đoán với quyền sống, quyền tự do của công dân; Thẩm phán sẽ đưa ra luật. Nếu quyền tư pháp hợp nhất với quyền hành pháp, thẩm phán sẽ có quyền lực của kẻ áp bức. Nếu một người hay một tổ chức  quan lại, quý tộc, hay dân chúng nắm giữ ba  quyền lực  trên thì tất cả sẽ mất. 

 Một cách ngắn gọn, theo Montesquieu, cách thức tổ chức một nhà nước như sau: “Cơ quan lập pháp trong chế độ này gồm có hai bộ phận, bộ phận này ràng buộc bộ phận kia bằng quyền lực cưỡng chế lẫn nhau. Hai đảng bị ràng buộc bởi nhánh hành pháp và nhánh hành pháp bị ràng buộc bởi nhánh lập pháp. » 

 Tư tưởng của Montesquieu tuy  còn nhiều hạn chế nhưng vẫn bảo thủ, đòi  đặc quyền cho tầng lớp quý tộc. Nhưng nó vẫn là cơ sở hình thành tư tưởng tam quyền phân lập sau này, có ảnh hưởng sâu sắc đến  quan niệm  về tổ chức nhà nước cũng như thực tiễn tổ chức của các nhà nước tư bản chủ nghĩa sau này. Chẳng hạn, hầu hết các bản hiến pháp của các  nước tư bản chủ nghĩa hiện nay đều khẳng định nguyên tắc tam quyền phân lập là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức quyền lực nhà nước. Điều 10 Hiến pháp Liên bang Nga đã khẳng định: “Quyền lực nhà nước ở Liên bang Nga được thực hiện  trên cơ sở tam quyền phân lập thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các cơ quan  lập pháp, hành pháp và tư pháp phải độc lập”. Điều 1  Hiến pháp Ba Lan cũng trực tiếp khẳng định việc tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân  quyền  thành ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp.  Tiếp sau Montesquieu, J.J. Rousseau  với tác phẩm “Về khế ước xã hội” đã đưa ra những quan điểm rất mới, tiến bộ về  phân công quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. 

  Rousseau (1712 - 1778) chủ trương duy trì tinh thần tập quyền, theo đó mọi quyền lực của nhà nước đều nằm trong tay cơ quan quyền lực tối cao, tức là của tất cả các công dân trong xã hội. Nhưng ông nhấn mạnh rằng việc phân chia quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp và quyền hành pháp, giao chúng cho cơ quan quyền lực tối cao và chính phủ, là cách  hợp lý duy nhất để đảm bảo nhà nước hoạt động  hiệu quả, cũng như ngăn chặn  xu hướng này. để lạm quyền. Ngoài ra, ông cũng đề cập đến vai trò quan trọng của cơ quan tư pháp trong việc đảm bảo  sự vận hành ổn định của nhà nước, cũng như  sự cân bằng giữa  cơ quan quyền lực tối cao, chính phủ và nhân dân. . Nhưng cách phân quyền của Rousseau không giống như của Locke và Montesquieu, bởi ông luôn khẳng định một điều duy nhất: “các bộ phận quyền lực được phân chia  đều phục tùng quyền lực tối cao” và “mỗi bộ phận chỉ có thực. ý chí tối thượng này. 4. Nội dung cơ bản của học thuyết tam quyền phân lập 

 Nội dung trung tâm của lý thuyết này là quyền lực của nhà nước luôn có xu hướng  mở rộng và củng cố vai trò của chính nó. Ở đâu có quyền lực, ở đó có xu hướng lạm quyền và chuyên quyền, bất kể quyền lực đó thuộc về ai. Vì vậy, để bảo đảm  các quyền tự do cơ bản của công dân và ngăn chặn sự lạm quyền của các chủ thể nắm  quyền lực nhà nước, cần thiết phải xây dựng pháp luật hạn chế  quyền lực của nhà nước. Cách tốt nhất để chống lạm quyền là  hạn chế quyền lực bằng các biện pháp hợp pháp, và cách để làm điều này không phải là tập trung quyền lực mà là phân chia quyền lực. Để hạn chế quyền lực của nhà nước, trước hết phải phân quyền,  sau đó mới bảo đảm cho các nhánh quyền lực  được phân công chỉ được  hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Sau này, trong một lá thư gửi cho một người cùng thời với mình là ông Samuel Kercheval, Thomas Jefferson - Tổng thống thứ 3 của Hoa Kỳ chỉ ra thêm rằng phân quyền không  chỉ theo chiều ngang mà  cần  cả theo chiều dọc và  bất kỳ lúc nào. ngành của nhà nước. 

 5. “Phân cấp quyền lực” được mô tả bởi Jefferson 

 Sự “phân cấp quyền lực” mà Jefferson  mô tả như sau: 

 - Phân bổ quyền lực chính phủ giữa các nhánh khác nhau của chính phủ. 

 - sự phân bổ các quyền hạn này sao cho chức năng của một nhánh chính quyền trong một vấn đề cụ thể  bị  hạn chế bởi chức năng của một nhánh khác có thẩm quyền đối với cùng vấn đề đó hoặc các vấn đề  liên quan khác. Thường được gọi là “kiểm tra và cân bằng”. Về cốt lõi, nó là một hệ thống  trong chính chính phủ để đảm bảo  trách nhiệm giải trình của chính phủ, được gọi là kiểm soát nội bộ. Vì sự kiểm soát này tạo ra một cơ chế ngầm, nên ai nắm giữ và được giao sử dụng quyền lực nhà nước cũng phải bị kiểm soát, theo nguyên tắc phòng ngừa, trong khi cơ chế kiểm tra  hầu như chỉ được thực hiện từ bên ngoài và diễn ra một khi  hậu quả đã xảy ra xảy ra. 

  Khía cạnh thứ ba của sự phân bổ này là sự phân chia quyền lực  chính phủ theo lĩnh vực, sao cho mỗi  nhiệm vụ của chính phủ được giao cho đơn vị chính phủ nhỏ  nhất và phổ biến nhất có thể đảm nhận nhiệm vụ đó.  

 Phân quyền ngang 

 Đây là cách  phân cấp cổ điển, mầm mống  của nó thuộc về Aristotle, được hoàn thiện bởi J. Locke, C.L. Montesquieu và J. Rousseau. Nội dung cơ bản của phân quyền theo chiều ngang cũng ít thay đổi trong thời đại hiện nay: 

  - Quyền lực nhà nước bị phân chia thành nhiều ngành khác nhau, do các cơ quan khác nhau nắm giữ nên không một cá nhân, tổ chức nào nắm trọn được  quyền lực nhà nước. Ví dụ, ở Hoa Kỳ, quốc hội có quyền lập pháp,  tổng thống có quyền hành pháp và tòa án có quyền tư pháp.  

 - Hoạt động của các cơ quan quyền lực công mang tính chuyên môn hóa, mỗi cơ quan  hoạt động chỉ để thực hiện chức năng  của mình, không  ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan khác.  

 - Quyền lực giữa các cơ quan quyền lực là cân bằng, không có loại quyền lực nào vượt trội. Các cơ quan quyền lực giám sát, kiềm chế, cân bằng và ức chế  lẫn nhau, để không ai có thể lạm quyền. 

  Ở nhiều  nước hiện nay, tư tưởng phân quyền theo chiều ngang đã có một số thay đổi,  chủ yếu là số nhánh quyền lực tách khỏi quyền lực nhà nước. Ở một số nước Nam Mỹ, quyền lực nhà nước đôi khi được chia thành các bộ phận 4, 5, 6,.... Ví dụ, Nicaragua có thêm quyền thanh tra của Tổng thanh tra; Argentina chia làm 6 đường; Việt Nam Cộng hòa chia quyền lực thành 4 phần, thêm quyền giám sát của Tòa án Tối cao. 

 Có ba mức độ biểu hiện của con đường phân quyền theo chiều ngang trong bộ máy nhà nước tư sản hiện nay: 

 Đầu tiên. Phân quyền nặng nề được áp dụng ở chính thể cộng hòa tổng thống, với đặc điểm là chính phủ  chịu trách nhiệm trước nhân dân như ở Hoa Kỳ, Philippines, v.v. 

Phân quyền linh hoạt được áp dụng trong  thể chế đại nghị, trong đó chính phủ  chịu trách nhiệm trước Quốc hội, như Anh, Nhật Bản, v.v. 
Phân quyền Trong một nền cộng hòa hỗn hợp, chính phủ vừa  chịu trách nhiệm trước nhân dân, vừa  chịu trách nhiệm trước Quốc hội, như ở  Pháp, Nga, v.v.  
 Phân cấp theo chiều dọc 

  Để hạn chế quyền lực nhà nước, quyền lực nhà nước không những phải được phân chia theo chiều ngang thành các ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp mà còn phải tiếp tục được phân chia theo chiều dọc giữa chính quyền trung ương và địa phương. Chính trong sự phân quyền này, quyền lực của nhà nước trung ương bị hạn chế. Đổi lại, quyền lực của chính quyền địa phương - chính quyền địa phương được chia thành lập pháp địa phương và hành pháp địa phương.  Nội dung chính của ý tưởng phân quyền theo chiều dọc như sau:  

 - Có hệ thống  cơ quan quyền lực nhà nước do dân bầu ở  địa phương song song với bộ máy nhà nước ở trung ương.  

 - Có sự phân định nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn cụ thể giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương trên các lĩnh vực cụ thể; nhưng trên hết chính quyền trung ương sẽ giải quyết các vấn đề công, vì lợi ích của cả cộng đồng xã hội như: chủ quyền lãnh thổ, dịch vụ công,...; còn chính quyền địa phương sẽ phụ trách các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục, văn hóa trên địa bàn, ngoài ra  có thể chủ động  hợp tác, trao đổi với các địa phương khác hoặc các tổ chức quốc tế trong phạm vi quyền hạn của mình.  

 Tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền trong chức năng, quyền hạn của mình có tính độc lập tương đối  với nhau. Chính quyền trung ương không có quyền điều hành, chỉ đạo chính quyền địa phương mà chỉ có quyền hoạch định chính sách, tạo hành lang pháp lý và kiểm tra, giám sát hoạt động của  chính quyền cấp dưới tất cả các lĩnh vực của chính quyền địa phương sẽ được xét xử độc lập bởi tòa án hành chính. 

 Phân cấp theo chiều dọc được thực hiện theo hai cách: 

 Đầu tiên. Phân quyền theo lãnh thổ: là cách thức phân quyền của chính quyền trung ương cho chính quyền địa phương theo  giới hạn hành chính - lãnh thổ. Việc tổ chức và quản lý các lãnh thổ này cần  phải tính đến nguyện vọng và nguyện vọng của cộng đồng dân cư. Như vậy, tham gia vào cơ chế hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương, ngoài các cơ quan quản lý còn có  các cơ quan do dân  trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra. Tổ chức  ở đây là tự trị. Các đơn vị hành chính không có sự độc lập về chính trị. Để tổ chức thực hiện các vấn đề  phát triển của địa phương, các đơn vị hành chính được pháp luật quy định  có quyền thành lập Hội đồng tự quản địa phương, chịu sự kiểm tra của đại diện cơ quan  nhà nước cấp trên. Cơ cấu tự trị đòi hỏi chính quyền địa phương phải có  cơ quan ra  quyết định và  cơ quan  hành pháp, tương tự như mô hình nghị viện và chính phủ.  

Phân cấp theo chuyên môn: Là cách phân quyền giữa các Bộ chuyên ngành và chính quyền địa phương. Ví dụ, ở New Zealand, chính phủ không điều hành bất kỳ bệnh viện công nào, tất cả các bệnh viện đều được phân bổ cho các bang. Khi ốm đau, các quan chức cấp cao của chính phủ  cũng phải đến các bệnh viện nhà nước. 
 Theo tiêu chí  cấp chính quyền địa phương,  có thể chia  cấp địa phương thành 4 cấp như Đức, Cameroon, Senegal,…; 3 cấp độ như Ý, Ấn Độ,...; 2 cấp như Đan Mạch, Nhật Bản,...; thậm chí 5 cấp như Pháp. Thông thường, chính quyền địa phương được tổ chức theo ba cấp. Ví dụ  ở Việt Nam là trung ương - tỉnh - huyện - xã.  

Nguyên tắc phân quyền theo chiều dọc cũng được phản ánh trong quan hệ  liên bang - nhà nước. Tổ chức nhà nước của các bang liên bang trước hết phải có sự phân biệt về thẩm quyền giữa liên bang và các bang. Các bang thuộc liên bang nhà nước tư sản không có chủ quyền trong các vấn đề đối nội và đối ngoại. Hiến pháp liên bang  cấm các bang  hợp tác với nước ngoài về các vấn đề chính trị. Trong việc tổ chức nhà nước liên bang, một câu hỏi rất quan trọng là sự phân chia quyền lực giữa liên bang và các bang, sự phân chia theo chiều dọc. Sự phân chia quyền lực nhà nước theo chiều dọc giữa liên bang và các bang có ba hình thức: 

 Những  quyền hạn đặc biệt này chỉ dành cho liên bang. Quyền hạn đặc biệt của các Quốc gia. Tòa án liên bang và tiểu bang chung. Để hạn chế quyền lực nhà nước của các bang, hiến pháp liên bang thường liệt kê các nhiệm vụ và quyền hạn của các thành viên. Ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn đã liệt kê, nhà nước không được giải quyết. Hoặc ngược lại, nhà nước liên bang vẫn tôn trọng chủ quyền của các thành viên hợp thành  có xu hướng liệt kê các quyền hạn chỉ dành cho liên bang.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo