Sự hình thành, phát triển của tổ chức thương mại quốc tế WTO

thương mại quốc tế và wto

thương mại quốc tế và wto

 













1. Thông tin sơ lược về Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)

 1.1. Tính tất yếu của sự ra đời của tổ chức: 

Trong xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang lan rộng trên toàn thế giới, kinh tế trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu. Hiện nay, thương mại quốc tế là trung tâm của các hội nghị của các tổ chức quốc tế. Sự gia tăng của thương mại quốc tế kéo theo sự phát triển của các yếu tố khác. Một trong những yếu tố đó là luật pháp, kiện tụng thương mại cũng như cách giải quyết. Tranh chấp thương mại quốc tế là vấn đề nóng luôn gia tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Can thiệp kinh tế có thể xảy ra khi một quốc gia tin rằng quốc gia kia đang vi phạm một thỏa thuận hoặc hiệp ước, hoặc cũng có thể là do các luật xung đột. Tuy nhiên, tranh chấp thương mại quốc tế có thể được hiểu là xung đột về quyền và lợi ích trong đó yêu cầu hoặc yêu sách của một bên bị bên kia phủ nhận hoặc khẳng định. Tuy nhiên, điểm khác biệt với các tranh chấp thông thường nằm ở đối tượng tranh chấp. Bao gồm: Các vấn đề phát sinh từ hoạt động kinh doanh quốc tế. Các chính sách thương mại của đất nước đi ngược lại các cam kết quốc tế. WTO được thành lập nhằm đạt được các mục tiêu sau: Quản lý các thỏa thuận thương mại; Phục vụ như một diễn đàn đàm phán thương mại; Giải quyết tranh chấp thương mại; Rà soát chính sách thương mại của các nước; Hỗ trợ các nước đang phát triển về chính sách thương mại; Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác. Như vậy, để giải quyết tranh chấp, nhiều hiệp định, hiệp định đã ra đời và hơn thế nữa, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ra đời để điều chỉnh quan hệ thương mại giữa các quốc gia.

 1.2. Thông tin tổ chức: 

WTO được thành lập theo Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới ký tại Marrakesh (Morocco) ngày 15 tháng 4 năm 1994. WTO chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01 tháng 01 năm 1995. WTO được thành lập để kế thừa tiền thân của nó, Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Đây là tổ chức quốc tế duy nhất đặt ra các quy tắc thương mại giữa các quốc gia trên thế giới. Các nguyên tắc và thỏa thuận của GATT được WTO kế thừa, quản lý và mở rộng. WTO không chỉ là một cơ quan điều ước, mà còn là một tổ chức có cơ cấu tổ chức cụ thể. Trụ sở chính: Geneva, Thụy Sĩ. – Thành viên: 164 quốc gia. – Gia nhập ngày 7-11-2006, Việt Nam là thành viên thứ 150 của WTO. Kể từ ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới. – Ngôn ngữ chính: Anh, Pháp, Tây Ban Nha. – Ngày 01/09/2013, ông Roberto Azevêdo được bầu làm Tổng Giám đốc điều hành thay ông Pascal Lamy. 

2. Thuật ngữ tiếng Anh:

 WTO là tên viết tắt của từ tiếng Anh World Trade Organization.

 3. Từ hệ thống Bretton Woods đến WTO: 

Từ năm 1944, bên cạnh các cuộc đàm phán thành lập Liên hợp quốc, hệ thống Bretton Woods đã được thiết lập với cấu trúc gồm ba trụ cột cơ bản: Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Tổ chức của ICO với tư cách là một tổ chức chuyên biệt của Liên hợp quốc. Văn bản pháp lý về tổ chức của ITO – Hiến chương Havana. Các hoạt động triển khai thiết lập IoT: Hơn 50 quốc gia đã tham gia đàm phán và soạn thảo các văn bản pháp lý của ICO, đạt được mục tiêu thành lập ICO. Hai mươi ba trong số 50 quốc gia tham gia đàm phán đã tham gia đàm phán để cắt giảm và thực hiện các mức thuế ràng buộc. Từ cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, các nước này đã thực hiện: Khởi động ngay quá trình tự do hóa thương mại; Loại bỏ nhiều biện pháp bảo hộ vẫn được áp dụng từ đầu những năm 1930. Kể từ đó, điều này đã mở đường cho 45.000 nhượng bộ thuế quan liên quan đến khoảng 1/5 thương mại thế giới, tương đương 10 tỷ USD; Chấp nhận một số quy định về luật chơi – luật vận hành trong thương mại quốc tế. Đồng thời áp dụng “tạm thời” một cách nhanh chóng để bảo vệ thành quả nhượng bộ thuế quan. Điều kiện tiên quyết của Chương trình Vòng Uruguay: Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1947), có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 1948. Đây là hiệp định quốc tế nhiều bên duy nhất điều chỉnh thương mại hàng hóa trên toàn thế giới từ năm 1948 cho đến khi thành lập WTO vào năm 1995. WTO được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 1995 nhưng hệ thống các quy tắc thương mại quốc tế do Tổ chức này điều chỉnh đã có từ trước đó. Chương trình làm việc do các bộ trưởng trình bày đã tạo tiền đề cho chương trình nghị sự của Vòng đàm phán Uruguay. Ngày 15 tháng 4 năm 1994, đa số các bộ trưởng của 123 nước tham gia đàm phán đã ký Văn kiện cuối cùng của Vòng đàm phán Uruguay tại cuộc họp ở Marrakesh (Morocco). Mục tiêu giao dịch: Tăng cường nền kinh tế toàn cầu và thúc đẩy thương mại và đầu tư. Tăng việc làm và thu nhập trên toàn thế giới. Tạo tiền đề cho sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Một hệ thống các hiệp định điều chỉnh quan hệ thương mại toàn cầu, ba trụ cột cơ bản đã được ký kết giữa các quốc gia. Trong số đó có nhiều hiệp định đưa ra lộ trình cho những việc cần làm hiện tại, nhưng cũng có những việc phải làm trong tương lai. Đó là những gì để nói: Hiệp định Thương mại và Thuế quan – GATT 1994; Hiệp định Thương mại Dịch vụ - Hiệp định GATS; Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ – Hiệp định TRIPS. Các nội dung được thực hiện trong khuôn khổ Vòng đàm phán Uruguay: Với các lĩnh vực đàm phán sau: Đối với một số lĩnh vực, điều đúng đắn cần làm là tiếp tục đàm phán hoặc bắt đầu đàm phán mới. Một số lĩnh vực khác yêu cầu đánh giá việc thực hiện hiệp định tại các thời điểm cụ thể. Với đàm phán: Một số cuộc đàm phán kết thúc nhanh chóng. Riêng về hạ tầng viễn thông và dịch vụ tài chính. Chính phủ các nước đã rất nhanh chóng đồng ý mở cửa thị trường cho các sản phẩm công nghệ thông tin nằm ngoài phạm vi chương trình của WTO. Một số cuộc đàm phán khác phức tạp hơn và mất nhiều thời gian hơn. Tuy vậy, Vòng Uruguay và các cam kết ở đó cũng đặt cơ sở cho các cuộc đàm phán mới về hàng loạt các vấn đề trong thời gian tới.

 4. Từ WTO đến Chương trình Doha phát triển và con đường tiếp theo: 

Khoảng năm 1995-1996, một số nước thành viên WTO đề nghị tiến hành vòng đàm phán mới trước năm 2000 về hàng loạt vấn đề mà các nhóm nước khác nhau trong WTO quan tâm. Các cuộc đàm phán được bắt đầu vào năm 1996. Một chương trình đàm phán mới đã được đưa ra: Nội dung chương trình gồm hơn 30 đề mục, trong đó có một số vấn đề đáng chú ý: 

– Với các nhóm dịch vụ: Dịch vụ vận tải hàng hải kết thúc đàm phán về mở cửa thị trường (tiến hành vào ngày 30-6-1996, hoãn lại tới năm 2000, sau chuyển sang Chương trình Doha); Dịch vụ và môi trường (xác định thời hạn báo cáo kết quả của nhóm công tác tháng 12/1996); Dịch vụ mua sắm chính phủ (tiến hành đàm phán đầu năm 1997); Dịch vụ viễn thông cơ bản (kết thúc đàm phán tháng 2/1997); Dịch vụ tài chính (kết thúc đàm phán tháng 12/1997);

 – Với các lĩnh vực khác: Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ: thiết lập hệ thống đa phương về thông báo và đăng chỉ dẫn địa lý đối với rượu vang (tiến hành đàm phán, trở thành một bộ phận trong Chương trình Doha); Hàng dệt may (một giai đoạn mới bắt đầu vào tháng 1/1998); Các biện pháp phòng vệ khẩn cấp trong lĩnh vực dịch vụ (áp dụng kết quả đàm phán trước 01-01-1998, hoãn lại đến tháng 3-2004); Quy tắc xuất xứ sản phẩm (đi đến sự thống nhất tương đối giữa các quy tắc về xuất xứ sản phẩm của các quốc gia tháng 7/1998); Các vấn đề về mua sắm chính phủ (mở những cuộc đàm phán mới để cải thiện các quy tắc và thủ tục bắt đầu vào cuối năm 1998); Xem xét lai toàn bộ các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp (trước năm 1998); Bắt đầu xem xét một số ngoại lệ đối với việc cấp bằng sáng chế và bảo vệ đa dạng thực vật (năm 1999); Năm 2000 sẽ xem xét các vấn đề nông nghiệp, dịch vụ thuộc Chương trình Doha, các cam kết trần về thuế quan, thống nhất kiểm tra định kỳ (hai năm một lần) việc thực thi Hiệp định TRIPS; Trong năm 2002 xem xét các vấn đề dệt may. Đến năm 2005, kết thúc thời hạn hiệu lực của hiệp định về hàng dệt may và thực hiện đầy đủ hiệp định GATT 1994 trong lĩnh vực này. Chương trình nghị sự phát triển Doha (DDA): Hội nghị Bộ trưởng lần thứ tư được tổ chức tại Doha (Qatar) vào tháng 11 năm 2001. Tại đây, các nước thành viên WTO đã nhất trí tiến hành một vòng đàm phán mới. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết những nhu cầu mới, mở ra một giai đoạn mới trong sự vận hành và phát triển của WTO. Họ cũng nhất trí thảo luận về nhiều vấn đề khác, bao gồm cả việc thực hiện các thỏa thuận hiện có. Từ đó, thống nhất và đảm bảo ý thức thành lập và duy trì tổ chức. Tất cả các hoạt động được thực hiện theo một chương trình nghị sự chung được gọi là Chương trình nghị sự phát triển Doha (DDA). Các hoạt động chương trình khác sẽ được thực hiện bởi các hội đồng hoặc ủy ban khác của WTO. Để đảm bảo tính phân chia, xác định các mục tiêu chính của chính sách phát triển. Tuyên bố Doha mô tả từ 19 đến 21 nhóm nội dung khác nhau, thể hiện sự bao trùm toàn diện. Tùy “luật” mà lập thành một hoặc ba nhóm nội dung để thảo luận. Phần lớn điều này đòi hỏi phải đàm phán. Phần còn lại yêu cầu các biện pháp “thực hiện”, phân tích, giám sát và đánh giá. Thống nhất triển khai hiệu quả các chính sách hoạt động cụ thể.

 

Kinh doanh quốc tế và thương mại quốc tế nên học ngành nào?

1. Điểm tương đồng giữa thương mại quốc tế và kinh tế quốc tế 

Trước khi biết nên học kinh doanh quốc tế hay kinh tế quốc tế, chúng ta cần biết kinh doanh quốc tế và kinh tế quốc tế có điểm chung gì: Cả hai chuyên ngành đều cung cấp cho sinh viên kiến ​​thức chuyên ngành trong các lĩnh vực: Logistics, xuất nhập khẩu, vận tải, bảo hiểm, v.v. Nhiệm vụ của kế toán quản trị và kế toán quản trị là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của các công ty, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Cơ hội nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp của hai chuyên ngành này là gần như nhau. 

2. Sự khác biệt giữa kinh tế quốc tế và thương mại quốc tế là gì? 

Bên cạnh những điểm tương đồng, sự khác biệt giữa thương mại quốc tế và kinh tế quốc tế là gì? Dưới đây là những đặc điểm riêng của từng ngành. 

2.1 Đối với kinh doanh quốc tế 

Thương mại quốc tế là một bộ phận của ngành quản lý. Ngành này xem xét các hoạt động kinh doanh quốc tế và đầu tư kinh doanh quốc tế. Sinh viên học chuyên ngành này có hai hướng phát triển như sau:

 Đầu tiên là: Trở thành Giám đốc chuỗi cung ứng, làm việc trong lĩnh vực Logistics, xuất nhập khẩu. Nếu chọn chuyên ngành này, bạn sẽ được học về vận đơn (đường sắt, đường biển, đường hàng không) hoặc nghiệp vụ vận tải; Bảo hiểm hàng hóa... 

Thứ hai là: Thực hiện các hoạt động quản lý trong công ty hoặc các lĩnh vực trong công ty, cụ thể: marketing, quản lý nhân sự (HR), quản lý bán hàng, thực hiện các nghiệp vụ tài chính trong công ty, công ty (tỷ giá hối đoái, thanh toán quốc tế). Sinh viên được đào tạo các kỹ năng chuyên nghiệp để nhìn nhận và giải quyết các vấn đề trong lập kế hoạch và triển khai các hoạt động kinh doanh quốc tế. 

2.2 Đối với kinh tế quốc tế 

So với kinh doanh quốc tế, kế toán quản trị mang tính chất vĩ mô hơn. Sinh viên học chuyên ngành này có khả năng nhận biết môi trường kinh tế của từng vùng, miền, quốc gia hay công ty. Du học sinh sẽ phân tích, đánh giá, từ đó lập kế hoạch và xây dựng chuỗi cung ứng, chuỗi xuất nhập khẩu của một ngành hàng/ngành hàng giữa các khu vực, quốc gia. Ngoài ra, sinh viên chuyên ngành kinh tế đối ngoại còn được trang bị kiến ​​thức chuyên môn để phân tích, đánh giá quá trình vận hành chuỗi. Từ đó, đưa ra các phương pháp cải tiến để hoàn thiện chuỗi cung ứng. Sau khi tốt nghiệp, sinh viên ngành này có thể làm việc ở các vị trí: quản lý chuỗi cung ứng (SCM), logistics, phân tích thị trường, xuất nhập khẩu… 



Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo