Hàng hoá trước hết “là một vật nhờ có những thuộc tính của nó mà thoả mãn được một loại nhu cầu nào đó của con người”, không kể nhu cầu đó được thoả mãn trực tiếp, nếu vật ấy là một tư liệu sinh hoạt, hay gián tiếp, nếu vật ấy là một tư liệu sản xuất. Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ chia sẻ những thông tin hữu ích liên quan đến khái niệm Thuộc tính xã hội của hàng hóa là gì? Mời quý vị theo dõi nội dung bài viết dưới đây.
Thuộc tính xã hội của hàng hóa là gì?
1. Hàng hóa là gì?
Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi mua – bán.
Ba điều kiện để sản phẩm trở thành hàng hóa là (1) Do lao động tạo ra; (2) Có công dụng nhất định để thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người; (3) Trước khi đi vào tiêu dung phải thông qua mua – bán.
Hàng hóa là phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa, ở dạng vật thể hoặc phi vật thể.
2. Thuộc tính xã hội của hàng hóa là gì?
Thuộc tính xã hội của hàng hóa là giá trị của hàng hóa. Tìm hiểu thuộc tính xã hội của hàng hoa tức là tìm hiểu giá trị của hàng hóa.
Muốn hiểu được thuộc tính xã hội của hàng hóa (giá trị hàng hóa) phải đi từ giá trị trao đổi. C.Mác viết: "Giá trị trao đổi trước hết biểu hiện ra như là một quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ theo đó những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác".
Ví dụ: 1 mét vải = 10 kg thóc.
Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội khác nhau, sản xuất hàng hoá có bản chất khác nhau, nhưng một vật phẩm sản xuất ra khi đã mang hình thái là hàng hoá thí đều có hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị.
Thứ nhất: Giá trị sử dụng
Hàng hoá trước hết “là một vật nhờ có những thuộc tính của nó mà thoả mãn được một loại nhu cầu nào đó của con người”, không kể nhu cầu đó được thoả mãn trực tiếp, nếu vật ấy là một tư liệu sinh hoạt, hay gián tiếp, nếu vật ấy là một tư liệu sản xuất.
Số lượng giá trị sử dụng của một vật không phải ngay một lúc đã phát hiện ra được hết, mà nó được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của KH-KT.
Giá trị sử dụng hay công cụ của hàng hoá là do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa quyết định .Với ý nghĩa nh vậy thì giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn.
Giá trị sử dụng chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng, nó là nội dung vật chất của của cải không kể hình thức xã hội của của cai đó như thế nào.
Một vật khi đã là hàng hoá thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng.Nhưng không phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng là hàng hoá. Chẳng hạn, không khí rất cần cho cuộc sống con người, nhưng không phải là hàng hoá.Nước suối, quả dại cũng có giá trị sử dụng , nhưng cũng không phải là hàng hoá.Như vậy, một vật muốn trở thành hàng hoá thì giá trị sử dụng của nó phải là vật được sản xuất ra để bán, để trao đổi, cũng có nghĩa là vật đó phải có giá trị trao đổi.Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi.
Thứ hai: Giá trị hàng hoá
Muốn hiểu giá trị hàng hóa phải xuất phát từ giá trị trao đổi.
Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi trước hết là tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác. Ví dụ: 1m vải trao đổi lấy 5 kg thóc. (Điều này có nghĩa là 1m vải có giá trị trao đổi bằng 5kg thóc)
Vấn đề đặt ra là: tại sao hai hàng hoá, hai giá trị sử dụng lại trao đổi được cho nhau, hơn nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định? Cái chung đó không thể là giá trị sử dụng vì hai loại hàng hóa này có công dụng hoàn toàn khác nhau (vải để mặc, thóc để ăn). Và sự khác nhau đó chỉ là điều kiện cần thiết để sự trao đổi xảy ra vì không ai đem trao đổi những vật phẩm giống hệt nhau về giá trị sử dụng. Cái chung đó là: cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh trong đó. Nhờ có cơ sở chung đó mà các hàng hóa có thể trao đổi được với nhau. Vậy, thực chất người ta trao đổi hàng hóa với nhau chẳng qua là trao đổi lao động của mình ẩn dấu trong trong những hàng hóa đó.
Chính hao phí lao động để tạo ra hàng hóa kết tinh trong hàng hóa ấy là cơ sở chung cho mọi việc trao đổi và nó tạo thành giá trị hàng hóa.
Giá trị hàng hóa là lao động của người sản xuất hàng hóa tạo ra, kết tinh trong hàng hóa. Giá trị hàng hóa biểu hiện thông qua giá trị trao đổi. Tức là, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Giá trị biểu hiện mối quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa vì trao đổi hàng hóa là so sánh lượng hao phí lao động giữa những người sản xuất hàng hóa. Quan hệ giữa người với người được thay thế bằng quan hệ giữa vật với vật (hàng – hàng). Giá trị hàng hóa là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa, có sản xuất hàng hóa thì mới có giá trị hàng hóa.
3. Vì sao hàng hóa có hai thuộc tính?
Hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị, hai thuộc tính đó không phải do có hai loại lao động khác nhau kết tinh trong nó, mà do lao động của người sản xuất hàng hoá có tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó.
Thứ nhất: Lao động cụ thể
– Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
– Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng: Mỗi lao động cụ thể có đối tượng lao động, mục đích riêng, công cụ lao đông riêng, phương pháp hoạt động riêng, và kết quả lao động riêng tạo ra những sản phẩm có công dụng khác nhau, tức là tạo ra nhiều giá trị sử dụng của hàng hóa.
Thứ hai: Lao động trừu tượng
– Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa không kể đến hình thức cụ thể của nó, để quy về một cái chung nhất, đó chính là sự tiêu hao sức lao động ( tiêu hao bắp thịt, thần kinh, bộ óc) của người lao động sản xuất hàng hóa nói chung.
– Lao động trừu tượng tích lũy trong hàng hóa và tạo ra giá trị.
+ Chỉ có lao động của người lao động sản xuất hàng hóa mới mang tính trừu tượng và tạo ra giá trị hàng hóa.
+ Lao động trừu tượng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.
Tất nhiên không phải có hai thứ lao động kết tinh trong hàng hóa mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hóa có tính hai mặt.
– Tính chất hai mặt nói trên liên quan đến tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa.
+ Tính chất tư nhân: Mỗi người sản xuất hàng hoá có tính tự chủ của mình nên sản xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào là việc riêng của họ. Vì vậy, lao động của họ trở thành việc riêng, mang tính tư nhân và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân.
+ Tính chất xã hội: Lao động của mỗi sản xuất hàng hóa cũng là một bộ phận của lao động xã hội trong hệ thống phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội làm cho lao động của người sản xuất trở thành một bộ phận trong lao động xã hội, từ đó tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hoá. Họ làm việc cho nhau, người này làm việc vì người kia thông qua trao đổi, mua bán hàng hóa. Việc trao đổi hàng hoá không thể dựa vào lao động cụ thể mà phải quy thành lao động đồng nhất là lao động trừu tượng. Do đó, lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.
4. Yếu tố quyết định đến giá cả hàng hóa
Giá cả hàng hóa được quyết định bởi các yếu tố sau:
- Giá trị của hàng hoá: Giá trị của hàng hóa tỷ lệ thuận với giá cả của hàng hóa.
- Giá trị của tiền tệ: Giá trị của tiền tệ tỷ lệ nghịch với giá cả của hàng hóa.
- Quan hệ cung – cầu về hàng hoá trên thị trường: Cung lớn hơn cầu làm giá cả xuống thấp hơn giá trị hàng hóa và ngược lại
Ngoài ra, giá cả hàng hóa còn chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranh.
Trên đây là bài viết Thuộc tính xã hội của hàng hóa là gì? Công ty Luật ACC tự hào là đơn vị hàng đầu hỗ trợ mọi vấn đề liên quan đến pháp lý, tư vấn pháp luật, thủ tục giấy tờ cho khách hàng là cá nhân và doanh nghiệp trên Toàn quốc với hệ thống văn phòng tại các thành phố lớn và đội ngũ cộng tác viên trên tất cả các tỉnh thành: Hà Nội, TP. HCM, Bình Dương, TP. Cần Thơ, TP. Đà Nẵng và Đồng Nai... Liên hệ với chúng tôi ngay hôm nay để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời.
Nội dung bài viết:
Bình luận