Những công cụ của chính sách thương mại thuế quan và phi thuế quan

thuế quan trong chính sách thương mại quốc tế

thuế quan trong chính sách thương mại quốc tế

1. Thuế quan là gì?

 Thuế quan là khoản thu của Nhà nước đối với hàng hóa khi hàng hóa chuyển từ lãnh thổ hải quan này sang lãnh thổ hải quan khác, nhằm tăng thu ngân sách nhà nước và bảo vệ thị trường trong nước. Cần phân biệt thuế quan với các loại thuế nội địa khác (như thuế giá trị gia tăng, thuế doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế tiêu thụ đặc biệt, v.v.) liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa trong lãnh thổ hải quan. Khái niệm “lãnh thổ hải quan” theo WTO: dùng để chỉ bất kỳ lãnh thổ nào có chế độ hải quan độc lập và các quy tắc thương mại khác để kiểm soát thương mại giữa lãnh thổ đó với các lãnh thổ khác (Điều XXIV Hiệp định GATT). Lãnh thổ hải quan và lãnh thổ quốc gia có thể giống hoặc khác nhau: lãnh thổ hải quan có thể lớn hơn lãnh thổ quốc gia (ví dụ: EU gia nhập WTO với tư cách là lãnh thổ hải quan); Lãnh thổ hải quan có thể hẹp hơn lãnh thổ quốc gia (ví dụ: Hồng Kông, Ma Cao ở Trung Quốc); Lãnh thổ hải quan có thể trùng với lãnh thổ quốc gia (đây là cách hiểu phổ biến). Thuế quan là một trong những công cụ kinh tế được sử dụng phổ biến và rộng rãi nhất trong chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia.\

 2. Phân loại thuế quan trong thương mại quốc tế 

Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại thuế quan trong thương mại quốc tế: Đối với mục đích tài chính: thuế bảo hộ (để bảo vệ một ngành nhất định), thuế tài chính (để tăng doanh thu) và thuế tiêu dùng (để hạn chế tiêu dùng trong nước). Theo đối tượng tài chính: thuế xuất khẩu (đánh vào hàng hóa xuất khẩu), thuế nhập khẩu (đánh vào hàng hóa nhập khẩu) và thuế quá cảnh (đánh vào hàng hóa quá cảnh sang nước khác, không tiêu thụ tại nội địa, áp dụng đối với các nước có điều kiện, địa lý đặc biệt). địa điểm thực hiện nghiệp vụ trung chuyển như tái xuất, chuyển khẩu). 

Tuy nhiên, thuế xuất khẩu ít được áp dụng do hạn chế mức độ xuất khẩu hàng hóa, trong khi thuế nhập khẩu được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở tất cả các nước trên thế giới. Theo cách tính thuế: Thuế tính theo trị giá hàng hóa (là loại thuế tính theo tỷ lệ phần trăm trên giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu); Thuế số lượng (là loại thuế được tính ổn định theo khối lượng hoặc trọng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu); Thuế được tính dựa trên sự kết hợp giữa giá trị và số lượng (thuế được tính theo cả hai cách). Theo mức thuế suất áp dụng: mức thuế suất này được xây dựng trên cơ sở chính sách thương mại và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu của mỗi quốc gia. Gồm 4 loại: Thuế suất tối đa: áp dụng cho các nước thù địch (thuế này hiện nay chủ yếu mang tính chất lịch sử, các nước hiện nay ít sử dụng); Thuế suất thông thường: áp dụng cho các nước có quan hệ bình thường; Thuế suất ưu đãi: áp dụng cho các nước được hưởng đối xử tối huệ quốc (MFN); Thuế suất ưu đãi đặc biệt: áp dụng đối với các nước có quan hệ kinh tế, thương mại biên giới hoặc có Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP). Trong đó, MFN được hiểu như sau: trên cơ sở các cam kết thương mại, một quốc gia dành cho một nước đối tác những ưu đãi có lợi nhất mà mình dành cho và sẽ dành cho một nước thứ ba khác trong tương lai. Ví dụ: Canada áp dụng đối xử MFN đối với Việt Nam thì giả sử Canada có chính sách giảm thuế đối với gỗ nhập khẩu từ Australia thì Canada cũng phải áp dụng chính sách giảm thuế này đối với Việt Nam. Quy định này bắt buộc một quốc gia phải đảm bảo cho tất cả các nước đối tác một chế độ ưu đãi thương mại bình đẳng (không phân biệt đối xử). GSP là: sự ưu đãi về thuế quan đối với hàng hóa mà các nước công nghiệp phát triển dành cho các nước đang phát triển khi nhập khẩu hàng hóa vào các nước đó. Kế hoạch này lần đầu tiên được đề xuất và thông qua tại Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển năm 1968 tại New Delhi, Ấn Độ. Mục tiêu của kế hoạch này là tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa các nước đang phát triển, giúp các nước này kích thích xuất khẩu, mở rộng thị trường và thúc đẩy phát triển kinh tế. GSP là chế độ thuế quan không mang tính cam kết (các nước được quyền thay đổi chính sách trong từng thời kì), được đánh giá là chế độ ưu đãi nhiều hơn so với MFN; tuy nhiên, GSP chỉ được áp dụng mang tính chất một chiều từ các nước phát triển dành cho các nước đang phát triển và áp dụng có hạn chế với một số nhóm hàng hóa (thường áp dụng phân biệt thành nhiều nhóm hàng với mức ưu đãi khác nhau, trong đó ưu đãi nhất là miễn thuế hoàn toàn). 

3. Phân loại thuế quan tại Việt Nam 

Tại Việt Nam, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016 quy định có 3 loại thuế suất tùy theo đối tác thương mại (Theo khoản 3 Điều 5 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016): Thuế suất ưu đãi: áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện MFN trong quan hệ thương mại với Việt Nam; Ví dụ: Từ khi gia nhập WT0, Việt Nam áp dụng thuế MFN với các nước thành viên của WT0 trung bình là 13,4% (trừ các nước cùng với Việt Nam là thành viên của các thoả thuận thương mại tự do song phương hoặc khu vực). Thuế suất ưu đãi đặc biệt: áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam; Ví dụ: Việt Nam áp dụng biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt để thực hiện Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) giai đoạn 2018 - 2022, theo Nghị định số 156/2017/NĐ-CP ngày 27/12/2017 của Chính phủ, mức thuế áp dụng với khoảng 15 nghìn mã hàng hóa đưa vào diện cắt giảm thuế, chủ yếu là 0 - 5% (Xem thêm: Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt để thực hiện Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) giai đoạn 2018 - 2022 (kèm theo Nghị định số 156/2017/NĐ-CP ngày 27/12/2017 của Chính phủ). Thuế suất thông thường: áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện MFN và không thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam. Thuế suất thông thường được quy định bằng 150% thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng. Trường hợp thuế suất ưu đãi là 0%, Thủ tướng Chính phủ căn cứ quy định tại Mục 10 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2016 để quyết định. Lưu ý: Loại thuế này chỉ áp dụng cho một phần rất nhỏ hàng nhập khẩu hiện nay của Việt Nam. Ngoài các loại thuế áp dụng trên, hàng hóa nhập khẩu còn có thể bị áp dụng các biện pháp thuế như (theo Mục 11 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2016): thuế tự vệ, thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp. 

4. Phân loại thuế quan theo WTO:

 Theo các văn bản pháp luật của WTO, có thể hiểu WTO chia thành 3 loại thuế như sau: Biểu thuế ràng buộc: Mức thuế tối đa cho phép đối với từng mặt hàng mà các thành viên WTO có thể áp dụng đối với hàng nhập khẩu. Mỗi thành viên khi gia nhập WTO phải công bố biểu thuế quan ràng buộc áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu vào nước mình (theo Điều II GATT). Ví dụ: Theo danh mục cam kết thuế quan đối với hàng hóa Việt Nam khi gia nhập WT0, thuế suất ràng buộc áp dụng đối với: quần áo, túi, cặp là 40%, cá hồi sockeye, tôm hùm là 30%..; Biểu thuế thực tế áp dụng: Là mức thuế hàng năm có hiệu lực áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu và do cơ quan hải quan các nước thành viên công bố. Mức thuế suất này không được nhỏ hơn hoặc bằng mức thuế suất ràng buộc. Ví dụ: Thuế suất của Việt Nam đối với các nước thành viên WT0 năm 2017 đối với cá hồi sockeye là 20% (thấp hơn mức thuế suất ràng buộc là 30%), đối với túi, cặp là 25% (thấp hơn mức thuế suất 30%). Hợp nhất là 40%. ); Hạn ngạch thuế quan: Áp dụng mức thuế trong hạn ngạch và mức thuế ngoài hạn ngạch. Thuế quan trong hạn ngạch nói chung là thấp và thuế quan ngoài hạn ngạch là cao. Trong đó, hạn ngạch được hiểu là quy định của Nhà nước về số lượng hoặc trị giá cao nhất của một hoặc một nhóm hàng hóa được phép xuất khẩu, nhập khẩu từ một thị trường, trong một thời hạn nhất định (thường là một năm). WTO cho phép áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với hàng nông sản. Các thành viên WTO không được phép áp dụng các biện pháp phi thuế quan đối với hàng nông sản (theo Phụ lục I của Hiệp định Nông nghiệp (AoA). Chẳng hạn, Việt Nam khi gia nhập WTO có quyền áp dụng hạn ngạch thuế quan với 4 mặt hàng: phẩm và đường thô, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối. Đối với 4 mặt hàng này, mức thuế suất trong hạn ngạch tương đương với mức thuế suất MFN hiện hành (trứng 40%, đường thô 30%, đường tinh luyện 50-60%, lá thuốc lá 30% và muối ăn 30%). mức thuế ngoài hạn ngạch cao hơn được ấn định từ năm này sang năm khác. Việt Nam áp dụng hạn ngạch thuế quan năm 2017 như sau:

 

Sản phẩm

Mức hạn ngạch

Thuế trong mức hạn ngạch

Thuế ngoài mức hạn ngạch

Trứng gia cầm

50.051 (tá)

40%

80%

Muối

102.000 (tấn)

30%

60%

Đường tinh luyện và đường thô

89.500 (tấn)

30 - 60%

80 - 100%

Lá thuốc lá

51.051 (tấn)

30%

80 - 90%

 

- Tác động của thuế quan: Phân tích trường hợp phổ biến được áp dụng của thuế quan là thuế quan nhập khẩu, ta thấy có những tác động sau: Hạn chế tiêu dùng trong nước: do thuế quan tác động trực tiếp làm tăng giá hàng nhập khẩu dẫn đến giảm cầu đối với hàng nhập khẩu (người tiêu dùng chịu thiệt); Hạn chế lượng hàng nhập khẩu: do khi giá tăng, người tiêu dùng giảm cầu đối với hàng nhập khẩu, khiến lượng hàng nhập về sẽ giảm tương ứng (người xuất khẩu mặt hàng bị áp thuế chịu thiệt); Bảo hộ thị trường nội địa: khi Nhà nước đánh thuế vào hàng nhập khẩu sẽ giúp các doanh nghiệp sản xuất nội địa (sản xuất mặt hàng tương tự) có thể cạnh tranh về giá với hàng nhập khẩu, do đó giúp các doanh nghiệp nội địa có thể tăng doanh số, lợi nhuận, việc làm (các doanh nghiệp trong nước hưởng lợi); Tăng thu cho ngân sách nhà nước (Nhà nước hưởng lợi): Thuế nhập khẩu là một trong những nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước, với chi phí thu thuế thấp hơn nhiều hình thức thu thuế gián thu khác do dễ kiểm soát và tính toán được chính xác lượng hàng hóa khi đi qua lãnh thổ hải quan; Tác động phụ: kích thích buôn lậu và gian lận thương mại; kích thích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thuế xuất khẩu cũng có tác động tương tự như thuế nhập khẩu, chỉ khác nhau ở chiều tác động. 

- Xu hướng áp dụng thuế quan: Do tác động khách quan của xu hướng toàn cầu hóa kinh tế và khu vực hóa kinh tế mà các nước trên thế giới hiện nay đa phần có xu hướng cắt giảm dần mức thuế quan theo yêu cầu của quá trình hội nhập. Quan điểm của WTO: Thuế nhập khẩu là công cụ bảo hộ hợp pháp. Tuy nhiên, các thành viên WTO phải cam kết giảm dàn thuế nhập khẩu. Ngoài ra, WTO cho phép các thành viên đánh thuế đối với hàng xuất khẩu, để kiểm soát xuất khẩu hoặc vì bất kỳ mục đích chính sách nào khác (như thu ngân sách, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái...). Ví dụ: Tại Biểu thuế xuất khẩu năm 2017 ban hành kèm theo Nghị định số 122/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 của Chính phủ quy định Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp , thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan, đa số các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có thuế suất 0%, tuy nhiên một số mặt hàng từ tài nguyên thiên nhiên chịu thuế xuất khẩu như: Thạch cao thuế xuất khẩu 10%, đất sét nung 10% , đá hoa (thô hoặc cắt thô) 17%, quặng sắt (cả chưa thiêu kết và nung). hết) 40%... 

5. Các công cụ phi thuế 

Đặc điểm chung của các công cụ phi thuế quan nói chung là công cụ hành chính, pháp lý điều chỉnh trực tiếp hoạt động xuất nhập khẩu; Tác động nhanh, do đó thường được sử dụng cho mục đích bảo hộ khẩn cấp, hoặc mục đích trong trường hợp công cụ thuế quan không hiệu quả. Thực tiễn áp dụng các công cụ phi thuế quan trong thương mại quốc tế ngày càng tinh vi. Có những công cụ phi thuế quan cản trở xuất khẩu, nhưng cũng có những công cụ phi thuế quan khuyến khích xuất khẩu. 

5.1 Hạn ngạch

 Hạn ngạch được hiểu là quy định của nhà nước về số lượng hoặc trị giá cao nhất của một hoặc một nhóm hàng hóa được phép xuất khẩu, nhập khẩu từ một thị trường, trong một thời hạn nhất định (thường là một năm). Hạn ngạch là một công cụ tiêu biểu của nhóm công cụ giới hạn định lượng. Ví dụ: Quốc gia X áp dụng hạn ngạch nhập khẩu năm 2006 là 85.000 tấn đường (bao gồm đường tinh luyện và đường thô). Điều này có nghĩa là đường sẽ không được nhập khẩu vào quốc gia X nếu vượt quá 85.000 tấn. Có hai loại hạn ngạch, hạn ngạch nhập khẩu và hạn ngạch xuất khẩu: - Hạn ngạch nhập khẩu: Được sử dụng chủ yếu nhằm mục đích bảo vệ thị trường, ngăn chặn hàng ngoại giá rẻ tràn ngập thị trường trong nước. Hạn ngạch nhập khẩu thường bao gồm các loại sau: hạn ngạch áp dụng chung, bất kể chúng được nhập khẩu từ thị trường nào; Hạn ngạch nhập khẩu của một thị trường cụ thể; Hạn ngạch cho toàn bộ nhóm hàng; Hạn ngạch riêng cho một mặt hàng cụ thể; Hạn ngạch tính theo số lượng; Hạn ngạch trong giá trị. - Hạn ngạch xuất khẩu: được sử dụng khi cần bảo vệ người tiêu dùng trong nước trước tình trạng thiếu hụt tạm thời một số mặt hàng (đặc biệt là lương thực). Ví dụ: Trung Quốc thực hiện hạn ngạch xuất khẩu lương thực tạm thời đối với bột mì, bột ngũ cốc và gạo bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 năm 2008 nhằm mục đích ổn định giá lương thực và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm tại thị trường trong nước. Ngoài ra, hạn ngạch xuất khẩu có thể được sử dụng để tăng giá trên thị trường thế giới. Ví dụ hạn ngạch xuất khẩu dầu mỏ của các nước OPEC. Hoặc dùng khi muốn hạn chế xuất khẩu hàng hiếm, khó tái sinh thành tài nguyên thiên nhiên. Ví dụ, Trung Quốc đã áp đặt hạn ngạch xuất khẩu than đá vào năm 2011 là 38 triệu tấn.

 * Tác động hạn ngạch:

 - Hạn chế số lượng hàng nhập khẩu (nhà xuất khẩu hàng chịu hạn ngạch bị thiệt hại);

 - Làm tăng giá tiêu dùng trên thị trường trong nước so với giá quốc tế và do đó hạn chế tiêu dùng trong nước (người tiêu dùng chịu thiệt);

 - Bảo hộ sản xuất trong nước: giúp các nhà sản xuất trong nước tăng sản lượng và giữ việc làm (nhà sản xuất trong nước được lợi);

 - Tạo lợi ích cho các công ty nhận hạn ngạch; 

- Tác dụng phụ: Kích thích buôn lậu và gian lận thương mại.

 * Xu hướng áp dụng hạn ngạch: Theo quy định của WTO: Chỉ có thể bảo hộ sản xuất trong nước bằng công cụ thuế quan, và cấm các hạn chế định lượng (kể cả hạn ngạch). Đây là yêu cầu bắt buộc đối với các Thành viên WTO (theo khoản 1 Điều XI/GATT). Như vậy, Việt Nam hiện là thành viên của WTO nên cũng không được phép sử dụng các công cụ hạn chế định lượng, kể cả hạn ngạch. Tuy nhiên, WTO vẫn cho phép thiết lập hạn ngạch trong các trường hợp ngoại lệ, như: Áp dụng hạn ngạch trong trường hợp áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại (theo Điều XIX của GATT); Nhằm tạm thời hạn chế, ngăn chặn và khắc phục tình trạng thiếu trầm trọng lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm khác (Theo điểm a khoản 2 Điều XI GATT); Để bảo vệ sức khỏe con người hoặc tài nguyên thiên nhiên (theo điểm b, điều XX của GATT); Các nước đang phát triển có thể áp dụng hạn ngạch trong các chương trình viện trợ của chính phủ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế hoặc hạn chế để bảo hộ một số ngành nhất định (theo khoản 2 Điều XVIIIGATT). Tại Việt Nam, trước khi là thành viên của WTO: Đối với hạn ngạch nhập khẩu, Việt Nam cũng đã áp dụng cho nhiều mặt hàng như xe tải, xe khách, xe chở người dưới 12 chỗ ngồi, mô tô 2 bánh, xe và linh kiện lắp ráp xe mô tô 2 bánh, thép xây dựng , phôi thép, xi măng, đường... năm 1997. Tuy nhiên, từ năm 1999, hầu hết các mặt hàng trên không còn áp dụng hạn ngạch mà chuyển sang các hình thức quản lý khác như giấy phép nhập khẩu. Kể từ khi trở thành thành viên của WTO, Việt Nam đã tuân thủ các quy định của WTO, không còn sử dụng công cụ hạn ngạch mà chuyển sang sử dụng hạn ngạch thuế quan (công cụ mà WTO cho phép sử dụng).

 5.2 Tiêu chuẩn sản phẩm

 Tiêu chuẩn sản phẩm là một công cụ đặt ra các tiêu chuẩn cho sản phẩm khi xuất khẩu hoặc nhập khẩu vào một quốc gia/khu vực, nhưng khi được cố ý áp dụng để kiểm tra hàng nhập khẩu, nó có thể trở thành một công cụ bảo hộ thương mại do nước nhập khẩu đưa ra các tiêu chuẩn sản phẩm đối với hàng hóa nhập khẩu và việc sử dụng các tiêu chuẩn như vậy sẽ có tác động cản trở dòng hàng hóa nhập khẩu. Tiêu chuẩn sản phẩm rất phong phú, đa dạng và có thể bao gồm: tiêu chuẩn kỹ thuật; Tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm; Tiêu chuẩn môi trường; Tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội... Trong cuộc sống, tiêu chuẩn sản phẩm là cần thiết để bảo vệ những lợi ích quan trọng như sức khỏe con người, môi trường, an toàn... Tuy nhiên, trên thực tế, công cụ này có thể trở thành rào cản thương mại hết sức tinh vi, khiến hàng hóa nước ngoài khó thâm nhập. Hiện nay, ước tính gần 1/3 hàng hóa được ưa chuộng trên thế giới đang bị rào cản kỹ thuật cản trở. WTO chỉ có các hiệp định quy định tiêu chuẩn kỹ thuật sản phẩm. Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại của WTO (Hiệp định TBT) phân biệt ba loại biện pháp kỹ thuật như sau: quy chuẩn kỹ thuật là yêu cầu kỹ thuật mang tính bắt buộc; Tiêu chuẩn kỹ thuật là yêu cầu kỹ thuật được cơ quan công nhận chấp nhận nhưng không ràng buộc; Quy trình đánh giá sự phù hợp của sản phẩm với quy chuẩn/tiêu chuẩn kỹ thuật. Quan điểm của WTO: các quốc gia có thể đưa ra các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật nhưng không được tạo ra những trở ngại không cần thiết đối với thương mại quốc tế và phải đảm bảo nguyên tắc không phân biệt đối xử, minh bạch và hài hòa. Các nội dung thường xuất hiện trong quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật là: đặc tính sản phẩm, quy trình, phương pháp sản xuất có ảnh hưởng/ảnh hưởng đến đặc tính sản phẩm, thuật ngữ, ký hiệu hoặc các yêu cầu về đóng gói, ghi nhãn áp dụng cho sản phẩm…

 Ví dụ: Tiêu chuẩn đóng gói sản phẩm: Cộng hòa Liên bang Đức từ chối nhập khẩu các sản phẩm của Indonesia được đóng gói trong bao bì gai dầu khó phân hủy vào Đức. Tiêu chuẩn về sản xuất/thu hoạch và phương pháp chế biến sản phẩm: Hoa Kỳ đã cấm nhập khẩu cá ngừ từ Mexico và tôm từ Thái Lan vì cho rằng các nước này sử dụng ngư cụ ảnh hưởng đến rùa biển. Cộng hòa Liên bang Đức cấm nhập khẩu văn hóa phẩm của Phần Lan vì chúng được làm từ bột giấy lấy từ rừng nguyên sinh ở Indonesia. Tiêu chuẩn an toàn thực phẩm: Nhật Bản từng yêu cầu quả anh đào xuất khẩu từ khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương của Mỹ phải được khử trùng bằng methyl bromide để đảm bảo không mang ấu trùng của loài gây hại. EU từng cấm nhập khẩu thịt bò Mỹ vì ngành chăn nuôi bò thịt của nước này sử dụng quá nhiều chất kích thích tăng trưởng cho bò gây hại cho sức khỏe người tiêu dùng. Các tiêu chuẩn của Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế (ISO) được nhiều nước áp dụng và WTO khuyến khích các nước thành viên sử dụng để “hài hòa hóa” các tiêu chuẩn kỹ thuật, như: ISO 9001: tiêu chuẩn quản lý, ISO 14000: tiêu chuẩn môi trường... 

5.3 Giấy phép 

Giấy phép là một hình thức ủy quyền cho phép thương nhân xuất nhập khẩu. Là công cụ hữu hiệu hơn công cụ thuế quan nhưng lại thuộc nhóm công cụ hạn chế thương mại nên xu hướng chung là các nước ngày càng ít sử dụng dần. - Tùy theo đối tượng tác động trong lĩnh vực chung hay riêng của giấy phép có thể chia thành: Giấy phép chung: Là loại giấy phép chỉ ghi rõ tên sản phẩm và thị trường, không hạn chế số lượng, không ghi rõ tên công ty được cấp. Về cơ bản, đây là một hình thức cấp phép để điều chỉnh quyền xuất nhập khẩu của các công ty. Chỉ những công ty có giấy phép này mới được trực tiếp ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu với đối tác nước ngoài; nó thường được sử dụng ở các nước có nền kinh tế phi thị trường khi Nhà nước muốn thực hiện độc quyền quản lý ngoại thương. Hiện nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra và xu thế tự do hóa thương mại, cạnh tranh ngày càng phát triển dẫn đến hình thức giấy phép phổ biến ngày càng ít được sử dụng, ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ hoạt động khai thác sang vận hành theo cơ chế thị trường , hình thức giấy phép chung bị bãi bỏ. Mọi doanh nghiệp, tập thể, cá nhân (có đăng ký hợp pháp) đều có quyền trực tiếp thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu với nước ngoài. Giấy phép riêng: Đây là loại giấy phép được cấp riêng cho từng thương nhân, trong đó ghi rõ số lượng, giá trị, thị trường, mặt hàng cụ thể cũng như thời gian có hiệu lực. Giấy phép này do các cơ quan quản lý nhà nước (Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương, Bộ Y tế,...) cấp nhằm quản lý chặt chẽ các mặt hàng xuất nhập khẩu có điều kiện

. - Căn cứ vào tính chất dễ cấp, có thể chia giấy phép kinh doanh thành hai loại: Cấp phép tự động: Là hình thức cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp khi doanh nghiệp nộp đầy đủ hồ sơ hợp lệ, không kèm theo bất kỳ điều kiện nào. Giấy phép này được cấp nhằm mục đích thống kê hoạt động xuất nhập khẩu. Về bản chất, có thể coi đây là nghĩa vụ doanh nghiệp phải thông báo với cơ quan quản lý nhà nước về hợp đồng xuất nhập khẩu của mình để giấy phép tự động không hạn chế thương mại. Chẳng hạn, Việt Nam áp dụng chế độ cấp giấy phép xuất khẩu tự động cho một số mặt hàng phân bón thuộc danh mục quy định (theo Thông tư số 35/2014/TT-BCT ngày 15/10/2014 của Bộ Công thương). . Nhưng ngày 29/5/2017, Bộ Công Thương đã công bố Thông tư số 07/2017/TT-BCT bãi bỏ Thông tư số 35/2014/TT-BCT, tức là bãi bỏ chế độ cấp giấy phép nhập khẩu tự động đối với một số loại phân bón. Giấy phép không tự động: Là hình thức cơ quan nhà nước chỉ cấp giấy phép nếu nhà xuất khẩu, nhập khẩu đáp ứng các điều kiện theo quy định. Loại giấy phép này thường nhằm mục đích quản lý các mặt hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu có tác động đặc biệt đến nền kinh tế hoặc xã hội, văn hóa hoặc môi trường. Thủ tục cấp loại giấy phép này thường phức tạp và mất nhiều thời gian nên thường được xếp vào loại hạn chế thương mại. 

Ví dụ: Phế liệu nhập khẩu vào Việt Nam phải thuộc Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành và phải tuân thủ Quy chuẩn kỹ thuật môi trường quốc gia đối với phế liệu nhập khẩu; Phải có quyết định phê duyệt báo cáo nghiên cứu tác động môi trường hoặc bản xác nhận bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường... Sau đó mới tiến hành lập hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện nhập khẩu phế liệu. Trong khuôn khổ WTO, các nước thành viên sẽ phải tuân thủ Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu (ILP) nhằm giảm thiểu các thủ tục hành chính cản trở tự do hóa thương mại. Khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng đã tiến hành cấp phép theo quy định của tổ chức này. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn bảo lưu quyền cấp phép nhập khẩu văn hóa phẩm, chủ yếu để kiểm duyệt nội dung, nhưng cam đoan rằng cơ chế cấp phép vì mục đích kiểm duyệt này sẽ tuân thủ các quy định về minh bạch và không phân biệt đối xử của WTO.

 5.4 Cấm nhập khẩu, cấm xuất khẩu 

Cấm nhập khẩu là công cụ bảo hộ tuyệt đối, giúp ngăn chặn hoàn toàn việc hàng hóa từ nước ngoài xâm nhập vào thị trường trong nước. Đối với xuất khẩu, công cụ này chủ yếu được sử dụng để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ các giá trị văn hóa. Cấm xuất nhập khẩu là công cụ bảo hộ mạnh nhất, gây hạn chế lớn nhất đối với thương mại quốc tế khi được sử dụng. Vì vậy, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các công cụ cấm xuất, cấm nhập khẩu ít được sử dụng. Trong khuôn khổ WTO, biện pháp này thuộc nhóm công cụ hạn chế định lượng nên bị cấm áp dụng (theo khoản 1 Điều XI GATT). Tuy nhiên, nó có thể được sử dụng trong những trường hợp ngoại lệ; Ví dụ, nó có thể được sử dụng trong các trường hợp: cần thiết để đảm bảo an ninh quốc gia; Cần thiết để bảo vệ đạo đức xã hội; cần thiết để bảo vệ sức khỏe con người, động vật và thực vật; cần thiết để bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên khan hiếm; cần thiết để ngăn chặn hoặc giảm bớt tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm hoặc các nhu yếu phẩm cơ bản khác... (Theo điều XI, XX, XXIGATT). Tại Việt Nam, thực hiện cam kết gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết dỡ bỏ các quy định cấm nhập khẩu thuốc lá điếu, xì gà; ô tô, mô tô trên 175cc đã qua sử dụng. Tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 69/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương có quy định về Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu. cấm và cấm nhập khẩu từ Việt Nam. Theo đó, các mặt hàng cấm xuất khẩu bao gồm: vũ khí, đạn dược, di vật, cổ vật, văn hóa phẩm, ấn phẩm cấm xuất bản, gỗ tròn, gỗ xẻ, động thực vật quý hiếm, mật mã dùng để bảo vệ thông tin bí mật nhà nước và hóa chất độc hại, hóa chất cấm xuất khẩu. Các mặt hàng cấm nhập khẩu bao gồm: vũ khí, đạn dược, pháo nổ các loại, một số nhóm hàng tiêu dùng đã qua sử dụng, xuất bản phẩm cấm nhập khẩu, văn hóa phẩm cấm nhập khẩu, xe tay lái bên phải, một số phương tiện và phế liệu đã qua sử dụng, thuốc bảo vệ thực vật cấm sử dụng trong Việt Nam, phế liệu kim loại, vật liệu và sản phẩm có chứa amiăng…

 5.5 Hạn chế xuất khẩu tự nguyện

 Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là thỏa thuận song phương giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu, theo đó nước xuất khẩu tự nguyện hạn chế xuất khẩu một số sản phẩm nhất định sang nước nhập khẩu ở một mức độ nhất định nhằm ngăn chặn các biện pháp xuất khẩu bất hợp pháp và hạn chế thương mại mà nước nhập khẩu có thể áp dụng. áp đặt. Các biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện thường được áp dụng theo yêu cầu của nước nhập khẩu và được nước xuất khẩu chấp nhận mà không có nguy cơ bị trả đũa thương mại. “Tự nguyện” ở đây được hiểu một cách tương đối vì trên thực tế không bên xuất khẩu nào tự nguyện hạn chế khối lượng xuất khẩu của mình. Phải có đàm phán giữa hai nước để đạt được hành động tự nguyện hạn chế số lượng xuất khẩu. Các biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện thường được sử dụng bởi các cường quốc kinh tế đủ mạnh để gây áp lực lên các nước xuất khẩu. Các nước đang phát triển có năng lực cạnh tranh thấp, tiềm lực kinh tế thấp không có khả năng áp dụng biện pháp này. Ví dụ: trong những năm 80 của thế kỷ 20, Hoa Kỳ đã nhiều lần đàm phán với Nhật Bản và EU để yêu cầu các nước này tự nguyện giảm khối lượng ô tô, thép và các sản phẩm điện tử cao cấp xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Ở góc độ WTO, đây là một hình thức hạn chế thương mại tinh vi, thiếu minh bạch. Hơn nữa, biện pháp này không chịu sự kiểm tra, kiểm soát của các tổ chức quốc tế để đánh giá mức độ tự do hóa, mở cửa thương mại của nước nhập khẩu. Biện pháp này bị cấm áp dụng do là công cụ hạn chế định lượng, vi phạm nguyên tắc không phân biệt đối xử, cụ thể là vi phạm nguyên tắc MFN khi chỉ áp dụng đối với một số quốc gia. 

5.6 Bán phá giá 

Theo quy định của WTO: “Một sản phẩm sẽ bị coi là bán phá giá nếu giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ nước này sang nước khác thấp hơn giá tương đương của sản phẩm tương tự được tiêu thụ tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường” - Khoản 1, Điều 2 của Hiệp định Chống bán phá giá (ADA). Ví dụ: Nếu một sản phẩm của quốc gia A được bán trên thị trường của quốc gia A với giá X, trong khi nó được xuất khẩu sang quốc gia B với giá Y. Neu Yandel;x, sản phẩm đó bị coi là bán phá giá từ quốc gia A đến nước B. . Tuy nhiên, bán phá giá là một trong những biện pháp khuyến khích xuất khẩu do giá thấp. Nhưng nó được coi là một biện pháp cạnh tranh không lành mạnh cần phải bị lên án và chấn chỉnh nên WTO đã đưa vấn đề bán phá giá vào hệ thống pháp luật điều chỉnh của mình và cho phép các nước thành viên áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đó. Thực tế thương mại quốc tế cho thấy, việc bán phá giá vẫn bị các nhà xuất khẩu của các nước lạm dụng dù biết hậu quả có thể không tốt. Theo báo cáo của WTO, hàng năm có hàng trăm vụ kiện chống bán phá giá vào WTO. Tính từ khi thành lập WTO (1995) cho đến nay, hơn 5.000 vụ kiện chống bán phá giá đã được các nước thành viên WTO giải quyết. 

5.7 Trợ cấp xuất khẩu

 Trợ cấp xuất khẩu là một biện pháp khuyến khích xuất khẩu, theo đó nhà nước phân bổ một khoản tài chính cho các nhà sản xuất hoặc xuất khẩu trong nước để họ có thể xuất khẩu nhiều hàng hóa và dịch vụ ra nước ngoài. Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM) trong khuôn khổ WTO đưa ra trong điều 1 định nghĩa về trợ cấp như sau: Để chứng minh rằng một hành động là “trợ cấp”, đồng thời phải thỏa mãn ba yếu tố: hoặc bất kỳ cơ quan công quyền nào lãnh thổ của thành viên, kể cả công ty đại chúng) và cung cấp dịch vụ; Việc đóng góp tài chính có thể là: hỗ trợ tài chính trực tiếp từ ngân sách Nhà nước hoặc miễn, giảm các khoản thu lẽ ra phải nộp cho Nhà nước (ví dụ: miễn, giảm thuế, phí, v.v.); hoặc Nhà nước mua hoặc cung cấp dịch vụ hoặc hàng hóa (không bao gồm cơ sở hạ tầng chung) với mức giá có lợi hơn cho doanh nghiệp so với thông thường... Giống như các biện pháp chống bán phá giá, trợ cấp xuất khẩu cũng được coi là công cụ cạnh tranh không lành mạnh, bóp méo cạnh tranh cần phải được khắc phục và điều chỉnh bởi pháp luật WTO. Các thành viên WTO có thể sử dụng các biện pháp chống trợ cấp nếu trợ cấp của một nước đối tác gây tổn hại đến lợi ích quốc gia. Theo WTO, trợ cấp xuất khẩu bị cấm. Khi gia nhập WTO, Việt Nam cam kết xóa bỏ hoàn toàn các hình thức trợ cấp bị cấm theo quy định của WTO, bao gồm cả trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp khuyến khích thay thế nhập khẩu tại thời điểm gia nhập (kể cả đối với dệt may) và tuân thủ các quy định liên quan đến các hình thức trợ cấp và trợ cấp khác. biện pháp khắc phục của họ. Việt Nam bảo lưu quyền áp dụng trợ cấp xuất khẩu nông sản đối với hai loại trợ cấp theo quy định đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát triển, đó là: (i) trợ cấp nhằm giảm chi phí tiếp thị, bao gồm chi phí xử lý, nâng cấp và tái chế sản phẩm, vận tải quốc tế chi phí, và chi phí vận chuyển; và (ii) Trợ cấp chi phí vận tải trong nước và quốc tế cho hàng xuất khẩu.

 5.8 Các biện pháp phòng vệ thương mại

 Đây là những biện pháp không bị cấm theo quy định của WTO. Các biện pháp phòng vệ thương mại bao gồm chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ thương mại. Sau khi gia nhập WTO, các thành viên sẽ phải dỡ bỏ dần các hàng rào phi thuế quan và giảm dần hàng rào thuế quan. Vì vậy, để bảo vệ thị trường nội khối, các nước thành viên có thể tăng cường sử dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp "phòng vệ thương mại".

 * Chống bán phá giá Chống bán phá giá là biện pháp mà cơ quan có thẩm quyền nước nhập khẩu áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu nhằm vô hiệu hóa hiện tượng bán phá giá của hàng hóa nhập khẩu tại thị trường nội địa của nước đó. Thuế chống bán phá giá là biện pháp được áp dụng phổ biến nhất đối với các sản phẩm bị điều tra và phát hiện có dấu hiệu bán phá giá. Thuế chống bán phá giá là loại thuế bổ sung (ngoài thuế nhập khẩu thông thường) đánh vào hàng hóa nhập khẩu bị bán phá giá - theo Hiệp định chống bán phá giá (ADA). Ví dụ: Ngày 31/12/2003, Liên minh Tôm phía Nam Hoa Kỳ (SSA) đã đệ đơn kiện chống bán phá giá tôm nhập khẩu từ Việt Nam và 5 nước khác lên Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ ( ITC). Sau quá trình điều tra của ITC và DOC, ngày 01/02/2004, lệnh áp thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ có hiệu lực với mức đánh giá được quy định trong phán quyết cuối cùng của DOC ngày 26/01/2005. -thuế bán phá giá từ 4,38% đến 25,76%, thuế suất toàn quốc là 25,76%. Theo WTO, bán phá giá là hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các nhà sản xuất và xuất khẩu nước ngoài đối với ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu. Vì vậy, WTO cho phép các nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể áp dụng các biện pháp chống bán phá giá để hạn chế hành vi này. Hiệp định chống bán phá giá (ADA) của WTO quy định chi tiết các vấn đề chống bán phá giá mà các nước thành viên WTO, trong đó có Việt Nam, phải tuân thủ. Tại Việt Nam, vấn đề chống bán phá giá hiện được điều chỉnh bởi Mục 2 Chương IV Luật Quản lý ngoại thương 2017 và các văn bản liên quan. Theo thống kê từ Hội đồng tư vấn phòng vệ thương mại quốc tế của VCCI, tính đến ngày 31/12/2018, Việt Nam đã khởi kiện 4 vụ kiện chống bán phá giá đối với hàng hóa nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam. Tại Việt Nam, 4 vụ việc trên đều liên quan đến mặt hàng thép (thép không gỉ cán nguội, tôn mạ kẽm, thép hình H, tôn mạ màu).

 * Chống trợ cấp Theo quy định của WT0, có 2 loại trợ cấp là trợ cấp vượt đèn đỏ và trợ cấp vượt đèn vàng, (i) Trợ cấp vượt đèn đỏ là trợ cấp bị cấm, trong đó có 2 loại (theo khoản 1 điều 3 Hiệp định SCM). : Trợ cấp xuất khẩu; Trợ cấp dựa trên cơ sở ưu tiên hàng nội địa hơn hàng nhập khẩu, (ii) Trợ cấp đèn vàng không bị cấm, nhưng có thể bị truy tố hoặc chịu các biện pháp đối phó, nếu trợ cấp không bị cấm. Mức độ này làm tổn hại đến lợi ích của các thành viên khác. Khi một sản phẩm nhập khẩu bị nghi ngờ được trợ cấp và gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước, nước nhập khẩu có thể khởi kiện và điều tra trước khi quyết định áp dụng biện pháp chống trợ cấp. Biện pháp phổ biến nhất là thuế đối kháng (còn gọi là thuế đối kháng). Thuế chống trợ cấp: Đây là loại thuế bổ sung ngoài thuế nhập khẩu thông thường đánh vào các sản phẩm được xác định là được trợ cấp. Mức thuế đối kháng thường dựa trên mức trợ cấp mà nhà sản xuất hoặc nhà xuất khẩu nhận được. Tại Việt Nam, vấn đề chống trợ cấp hiện được quy định tại Mục 3 Chương IV Luật Quản lý ngoại thương 2017 và các văn bản liên quan. Theo thống kê từ Hội đồng tư vấn phòng vệ thương mại quốc tế của VCCI, tính đến ngày 31/12/2018, Việt Nam chưa tiến hành bất kỳ vụ điều tra chống trợ cấp nào.

 * Tự vệ thương mại Biện pháp tự vệ là việc tạm thời hạn chế nhập khẩu một hoặc một số loại hàng hóa khi việc nhập khẩu chúng tăng nhanh gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước. Cần phân biệt biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp với các biện pháp tự vệ thương mại: biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp là biện pháp chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh hoặc bóp méo cạnh tranh, trong khi các biện pháp phòng vệ thương mại được áp dụng cho các hành vi thương mại công bằng, không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật.luật. Vì vậy, về hình thức, biện pháp này được coi là trái với chính Chính sách tự do hóa thương mại của WTO. Tuy nhiên, đây là một biện pháp được WTO công nhận với các điều kiện nghiêm ngặt để ngăn chặn sự lạm dụng. Lý do được đưa ra là trong bối cảnh buộc phải mở cửa thị trường và tự do hóa thương mại trong khuôn khổ cam kết WTO, biện pháp tự vệ thương mại là một dạng “van an toàn” được hầu hết nước nhập khẩu sử dụng. là một thành viên của WTO là mong muốn. Mục đích của biện pháp tự vệ là bảo vệ tạm thời ngành sản xuất trong nước, để ngành này có đủ thời gian thích ứng với áp lực cạnh tranh. Các quy định về sử dụng biện pháp tự vệ trong WTO được quy định tại Điều XIX GATT và trong Hiệp định về các biện pháp tự vệ (Hiệp định SA). Tại Việt Nam, vấn đề tự vệ thương mại hiện được điều chỉnh bởi Mục 4 Chương IV Luật Quản lý ngoại thương 2017 và các văn bản liên quan. Theo thống kê từ Hội đồng tư vấn phòng vệ thương mại quốc tế của VCCI, tính đến ngày 31/12/2018, Việt Nam đã tiến hành 6 vụ điều tra tự vệ thương mại đối với hàng hóa nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo