Trong thời gian qua, tình hình thị trường bất động sản liên tục có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường; thậm chí có lúc căng thẳng và nghiêm trọng. Năm 2020 và 3 tháng đầu năm 2021, tình hình Biển Đông tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường... buộc chúng ta phải nắm chắc tình hình, thực hiện tốt đường lối đối ngoại của Đảng, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo. , biển đảo và thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc.

Tổng quan về biển đảo và thực trạng tranh chấp biển đảo
I. Vị trí các vùng biển và đại dương; hướng ra biển
Biển và đại dương bao phủ ba phần tư bề mặt trái đất. Trong lòng biển và đại dương chứa đựng: Nguồn khoáng sản, năng lượng và sinh vật vô cùng quan trọng. Thế kỷ 21 được coi là thế kỷ của đại dương, tiến ra biển đã trở thành xu thế chung của thế giới và khu vực.
1. Tại sao?
* Thứ nhất: Dân số thế giới ngày càng tăng, không gian sống trên trái đất ngày càng hạn hẹp nên nhiều quốc gia hướng ra biển, biến biển thành không gian sống. Dân số thế giới: Năm 2006 là 6,5 tỷ người. Ước tính đến năm 2017 sẽ đạt 8 tỷ người (tăng 1,5 tỷ). Dân số Trung Quốc sẽ là 1,6 tỷ người vào giữa thế kỷ 21 - đặt ra những vấn đề cấp bách về lương thực, nhà ở, việc làm, môi trường sống...).
* Nguyên nhân thứ hai: tài nguyên trên trái đất ngày càng cạn kiệt, trong khi tài nguyên của biển và đáy đại dương vô cùng phong phú và bao la. Vàng: trên đất liền khoảng 3,5 vạn tấn - trên biển khoảng 10 triệu tấn (gấp gần 300 lần). Băng cháy: Được xác định là năng lượng của thế kỷ 21, có khoảng 40 triệu km2 dưới biển, chiếm 1/10 tổng diện tích đáy đại dương; đủ cho con người sử dụng trong 1.000 năm. Hiện có 4 nước nghiên cứu khai thác là Mỹ, Đức, Ấn Độ, Trung Quốc. (Trung Quốc đã chi 800 triệu NDT nghiên cứu băng cháy. Dự kiến khai thác thương mại năm 2020). * Nguyên nhân thứ ba: khoa học và công nghệ biển phát triển vượt bậc, tạo điều kiện cho nhân loại nghiên cứu, khám phá biển; khai thác biển hiệu quả hơn; Đi xa hơn, đi xa hơn. Trung Quốc: Có hai giàn khoan nước sâu "Lãnh thổ xanh" khoan sâu từ 3.000m đến 4.000m. Thi công giàn khoan lớn nhất châu Á, cao 213 m, tải trọng 25.000 tấn, khả năng khoan sâu 9.000 m.
2. Xu hướng hướng ra biển: Có 5 xu hướng sau:
* Hướng thứ nhất là: Ưu tiên phát triển các ngành khoa học công nghệ liên quan đến biển như: (Nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên biển; Đóng tàu, cảng biển; Đánh cá; Xây dựng đảo, sân bay nhân tạo, sân bay hàng hải... .). Nhật Bản: đầu tư xây dựng 8 đảo nhân tạo và 2 sân bay quốc tế nhân tạo Ý: Xây 5 đảo nhân tạo (50 triệu euro).
* Hướng thứ hai là: Thu lợi nhuận từ việc khai thác tài nguyên, đánh bắt cá ở các vùng biển công cộng và vùng tranh chấp, hạn chế khai thác ở các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền. (Trung Quốc là quốc gia có nhiều thuyền đánh cá nhất trên thế giới.)
* Hướng thứ ba là: Phát triển kết cấu hạ tầng ven biển và hải đảo như đường giao thông, cảng biển, sân bay, nhà máy chế biến, chế tạo, đóng tàu... Việt Nam: Có 90 cảng biển (Quyết định 16/2008 của Thủ tướng Chính phủ có 49 cảng gồm: 17 cảng loại 1; 23 cảng loại 2; 9 cảng loại 3).
* Phương hướng thứ tư là: tạo hành lang pháp lý vươn ra biển, ban hành các văn bản chính sách, chế độ ưu tiên cho các lực lượng hoạt động trên biển, tích cực giải quyết các tranh chấp về chủ quyền, quyền chủ quyền.
(Các nước có biển đều: Xây dựng chiến lược biển. Ban hành luật biển (Trung Quốc đã có 6 luật biển và hiện đang xây dựng luật biển đảo).
* Phương hướng thứ năm là: Ưu tiên phát triển các lực lượng bảo vệ biển, đảo như hải quân, lục quân, cảnh sát biển (cảnh sát biển), bộ đội biên phòng, kiểm ngư (Hải giám, kiểm ngư)... Trung Quốc: Có sách trắng về xây dựng sở chỉ huy và lực lượng không quân ở phía nam Brunei: có 380.000 dân, mua một lúc 4 tàu KTTL (270 triệu USD/chiếc)
Từ vị trí quan trọng của biển, đại dương và xu hướng tiến ra biển dẫn đến các tranh chấp trên biển Vậy thực trạng tranh chấp các vùng biển, đảo trên thế giới hiện nay như thế nào?
II. Tình hình xung đột biển, đảo trên thế giới hiện nay.
* Thế giới hiện nay: có 157 quốc gia có biển, tồn tại 380 vùng biển tranh chấp nhưng trong hơn 20 năm qua (từ 1994) mới giải quyết được gần 100 vùng = 24%. Còn lại 280 lĩnh vực = 76% chưa giải quyết được, có những lĩnh vực tồn tại hàng trăm năm, hàng chục năm chưa được giải quyết.
Trong thế giới ngày nay, tranh chấp biển, đảo diễn ra gay gắt và ngày càng phức tạp, chưa có hồi kết. Có thể nói: tình hình tranh chấp biển, đảo trên thế giới và khu vực diễn ra hết sức gay gắt, phức tạp (có nơi đã nổ ra chiến tranh.
* Việc giải quyết tranh chấp diễn ra như thế nào? Đầu tiên là sử dụng vũ lực.
- Thứ hai là: Bí mật chiếm đóng, xâm lược tạo nên quá khứ (Trung Quốc đánh chiếm 6 đảo, đá ngầm năm 1988 và đá Vành Khăn năm 1995 trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam).
- Thứ ba: Thông qua Tòa án quốc tế để thương lượng giải quyết (Trước năm 1967, không có tiêu chuẩn nào cho việc giải quyết tranh chấp. Từ năm 1967, Liên hợp quốc thành lập Ủy ban thảo luận, năm 1982, "Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển" được thông qua 1982”, sau 3 lần sửa đổi, có hiệu lực từ tháng 11 năm 1994. Đến nay đã có 159 quốc gia ký Công ước nhưng mới có 102 quốc gia phê chuẩn (và 73% số quốc gia có vùng biển chồng lấn chưa ký Công ước). * Dự báo: Trong 20 năm tới, tranh chấp chủ quyền, tranh giành tài nguyên, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa sẽ hết sức gay gắt và phức tạp.
III. Vài Nét Về Biển Đông
1. Vị trí quan trọng của Biển Đông:
- Tổng quan: Có vị trí địa chính trị, địa kinh tế cực kỳ quan trọng (1/3 lượng hàng hóa giao thương trên thế giới đều đi qua biển Đông. Có thể nói hiếm nơi nào trên thế giới thuận lợi hơn biển Đông). . Xung quanh biên giới có 9 quốc gia và 1 vùng lãnh thổ: Trung Quốc, Philippines, Thái Lan, Singapore, Malaysia, Indonesia, Việt Nam, Campuchia, Brunei và Đài Loan.
- Về diện tích: BD có diện tích gần 3,5 triệu km2 (gấp 8 lần Biển Đen, 1,2 lần Địa Trung Hải) là biển lớn thứ hai sau biển Taxman.
- Giao thông: Là 1 trong 10 tuyến đường biển lớn nhất thế giới, giao thông qua lại rất nhộn nhịp (Hàng ngày có khoảng 200 đến 300 lượt tàu từ 5.000 tấn trở lên đi qua, chiếm 3/4 lưu lượng đường biển). Nếu xảy ra khủng hoảng: giao thông bị gián đoạn, kinh tế thiệt hại nặng nề, nhiều nền kinh tế suy thoái. ảnh hưởng đến an ninh toàn cầu.
- Về kinh tế: Tài nguyên khoáng sản (dầu mỏ...), hải sản, năng lượng... - Về chính trị, QP-AN là nơi tập trung các mâu thuẫn về chính trị và kinh tế. Sự chú ý của thế giới đang chuyển từ Châu Âu-Đại Tây Dương sang Châu Á-Thái Bình Dương. Đó là nơi diễn ra những tranh chấp gay gắt và phức tạp nhất. Là khu vực có sự tham gia của hầu hết các quốc gia trên thế giới (kể cả các quốc gia không có chủ quyền: Nga, Ấn Độ, Hoa Kỳ, Nhật Bản, v.v.).
2. Từ đó, nước nào kiểm soát được Biển Đông sẽ có lợi thế về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng.
IV. Một số đặc điểm của biển Việt Nam
- Nước ta giáp biển Đông ở phía đông và nam. Vùng biển Việt Nam là một bộ phận của Biển Đông, diện tích hơn 1 triệu km2, chiếm 29% diện tích Biển Đông, gấp 3 lần diện tích đất liền).
- Bờ biển dài 3.260 km, từ Quảng Ninh đến Kiên Giang. Như vậy cứ 100 km2 đất liền có 1 km bờ biển, đứng thứ 27/157 quốc gia có biển trên thế giới.
- Trong số 63 tỉnh, thành phố có 28 tỉnh, thành phố có biển Biển nước ta được đánh đồng với: mặt tiền, sân trước, cửa ngõ đất nước. Các vùng biển, đảo hình thành đầm lầy, chướng ngại vật, bố trí thế trận phòng thủ liên hoàn để bảo vệ Trung Quốc. Truyện tóm tắt 10/14 cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, giặc đánh bằng đường biển. Trong 28 tỉnh, thành phố ven biển, nơi có gần một nửa dân số sống ven biển, khoảng cách giữa các trung tâm kinh tế, chính trị lớn của nước ta với bờ biển không quá 100 km. Vùng biển nước ta có gần 3.000 hòn đảo ven bờ và hai quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa, tạo nên thế phòng thủ vững chắc cả trong và ngoài để bảo vệ Tổ quốc.
Tóm lại, biển, vùng ven biển và hải đảo là bộ phận lãnh thổ thống nhất của nước ta, gắn bó chặt chẽ với các vùng khác của châu lục. Là địa bàn cực kỳ quan trọng trong việc tổ chức phòng thủ, ngăn chặn, triển khai lực lượng tiến công tiêu diệt quân xâm lược từ hướng biển, là căn cứ, nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh, quốc phòng. * Vì vậy, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã ra nghị quyết về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”. Nghị quyết đề ra phương hướng mục tiêu như sau: Phải phấn đấu nước ta trở thành nước mạnh về biển, làm giàu từ biển, phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển đóng góp khoảng 53 - 54% GDP, 55 - 60% GDP. kim ngạch xuất khẩu của đất nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện mạnh mẽ đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển.
V. Khái quát về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nước ta có hơn 4000 hòn đảo lớn nhỏ. Ở đâu: Vùng biển Đông Bắc có hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ. Việt Nam có hai quần đảo ngoài khơi là Hoàng Sa và Trường Sa.
1. Quần đảo Hoàng Sa:
Là một quần đảo san hô nằm ở biển Đông. Từ lâu, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam với các tên gọi là Bãi Cát Vàng và Hoàng Sa.
Quần đảo Hoàng Sa bao gồm hơn 37 đảo, đá và bãi cạn trong một vùng biển rộng khoảng 30.000 km2, được chia thành hai nhóm:
Nhóm phía đông gọi là An Vĩnh: xưa là tên một xã thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Nhóm An Vĩnh bao gồm khoảng 12 đảo nhỏ và một số đảo san hô, trong đó có 2 đảo lớn là Phú Lâm và Linh Côn, mỗi đảo có diện tích 1,5 km2.
Nhóm phía Tây: gồm nhiều đảo xếp theo hình vòng cung nên được gọi là nhóm Lưỡi Liềm. Bao gồm quần đảo Hoàng Sa (diện tích 1 km2); Ảnh chụp; Hữu Nhật; Quang Hòa; Duy Mộng; Chim Yến, Tri Tôn... Riêng trên đảo Hoàng Sa có trạm khí tượng Việt Nam hoạt động từ năm 1938 đến năm 1947, được Tổ chức khí tượng quốc tế đánh số 48-860 (số 48 chỉ diện tích Việt Nam).
Dưới triều Nguyễn, quần đảo Hoàng Sa thuộc phủ Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Nam. Năm 1938, thuộc tỉnh Thừa Thiên. Năm 1961 gọi là xã Định Hải, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Năm 1982, Nhà nước ta quyết định thành lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng. Nay trở thành Huyện Đảo Hoàng Sa của Thành phố Đà Nẵng.
Đối với quần đảo này, chúng ta có đủ căn cứ trên ba phương diện: thực tiễn, lịch sử và pháp lý để khẳng định chủ quyền của Việt Nam.
Năm 1956, Trung Quốc chiếm đảo Phú Lâm. Năm 1974, Trung Quốc chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. => Lúc bấy giờ nằm dưới sự lãnh đạo của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Sự chiếm đóng của Trung Quốc được hỗ trợ bởi Hoa Kỳ. 2. Quần đảo Trường Sa:
Quần đảo Trường Sa gồm hơn 100 đảo nhỏ và rạn san hô, diện tích từ 160 đến 180 km2, cách cảng Cam Ranh 248 hải lý.
Nói đến vùng biển này, nhiều chuyên gia quân sự trên thế giới từng cho rằng: Ai làm chủ Trường Sa sẽ làm chủ biển Đông.
- Trên quần đảo Trường Sa hiện nay có 5 quốc gia và 6 bộ phận, đó là:
Việt Nam: Hiện đang quản lý 21 đảo (gồm 9 đảo nổi, 12 đảo chìm, với 33 điểm đóng quân.
Trung Quốc: Chiếm 7 bãi đá ngầm
Đài Loan: Chiếm đảo Taiping. Năm 2004 báo cáo và tuyên bố chủ quyền ở bãi cạn Bàn Than.
Philippines: chiếm 8 đảo
Malaysia: chiếm 5 đảo
Brunei: Dù hiện nay họ không chiếm giữ đảo nào, nhưng họ có tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa.
* Khu DK1:
Ngày 03 tháng 7 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng trở thành Chính phủ ra Chỉ thị số 160/CT chính thức tuyên bố thành lập Đoàn kinh tế - khoa học - dịch vụ chịu sự quản lý hành chính của Đặc khu Vũng Tàu - Hải đảo. (Còn gọi là DK1).
VI. Tranh chấp Biển Đông:
Đầu tiên. Phân loại Tranh chấp Biển Đông:
- Loại thứ nhất: Về quần đảo Hoàng Sa: chỉ mang tính chất song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc.
- Loại tranh chấp thứ hai Tranh chấp chủ quyền giữa 5 nước, 6 bên ở Biển Đông. (Philippines, Malaysia, Brunei, China, Vietnam, Taiwan. Chỉ có Việt Nam và Trung Quốc tập trung tranh chấp với Việt Nam.
- Thứ ba là: Tranh chấp vùng đặc quyền kinh tế => Liên quan đến yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc. Đường: lưỡi bò (chữ U hay “9 đoạn gãy”) là cách gọi khác của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Diện tích Đường Lưỡi Bò: 2,8 triệu km2 (80% diện tích Biển Đông).
2. Một số hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông
Từ năm 2011 đến nay, Trung Quốc tăng cường hoạt động
- Tàu Hải Giám uy hiếp, cản trở, cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02 khi thăm dò trong thềm lục địa Việt Nam. Vị trí cáp thăm dò bị phía Trung Quốc cắt cách mũi Đại Lãnh (Phú Yên) khoảng 120 hải lý. - Ngày 10/6/2011 là vụ tàu Vị Kinh II của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (đứt dây, hư cáp).
- Triển khai giàn khoan nước sâu 3.000m tại vùng biển Đông Bắc Biển Đông.
- Ngày 21/6, Quốc vụ viện Trung Quốc đã thông qua quyết định thành lập cái gọi là "Thành phố Tam Sa" với chu vi quản lý bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
- Thông báo mời thầu 9 lô dầu khí nằm trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam, v.v.
- Gia tăng hoạt động mở rộng các đảo chiếm đóng trái phép trong PLA: Tổng dự án cải tạo 7 bãi cạn của Trung Quốc là 250 tỷ USD, dự kiến hoàn thành vào năm 2030. Hiện đã chi 7 tỷ đô la. (Rất lớn)
- Tăng cường đầu tư quân sự, luyện tập các phương án đánh chiếm đảo khi có cơ hội (Ngân sách quốc phòng của Trung Quốc năm 2015 là 142 tỷ đô la, tăng 10,22% so với 2014 (đứng thứ 2 thế giới, sau Hoa Kỳ) Liên tục từ 2011 đến nay, đầu tư ngân sách quốc phòng hàng năm của Trung Quốc đã tăng hơn 10% so với năm trước), hiện là 280 tỷ USD.
- Tăng cường sự có mặt của lực lượng thực thi pháp luật (Ngư Chính, Hải Vàng, Hải Giám…) để khẳng định chủ quyền theo yêu sách “đường lưỡi bò”. Trung Quốc đang vạch ra kế hoạch trợ cấp, huấn luyện an toàn và khuyến khích 100.000 tàu cá ra biển Đông đánh cá.
Từ những hoạt động của Trung Quốc trong thời gian qua, có thể nói “tham vọng độc chiếm Biển Đông” của Trung Quốc không hề thay đổi. Tình hình thực địa trong thời gian tới sẽ có những diễn biến hết sức phức tạp.
Phần thứ hai:
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong giải quyết tranh chấp ở Biển Đông
1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
Bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Trong tình hình phức tạp hiện nay, chúng ta phải:
a) Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền về biển, đảo
* Tuyên truyền và vận dụng đúng quan điểm về đối tác, đối tượng. Trong tình hình phức tạp và thay đổi nhanh chóng ngày nay, cần phải có một quan điểm biện chứng. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) nêu rõ: “Các nước tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; Bất kỳ thế lực nào có âm mưu, hành động chống lại mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là mục tiêu của chúng ta”. của một đối tượng ở khắp mọi nơi.
* Thực hiện ba không: không để bị kích động, lợi dụng chia rẽ khối đoàn kết dân tộc Việt - Trung; Đừng ngạc nhiên ; Đừng sa đà vào những hành động khiêu khích gây mâu thuẫn, xô xát.
b) Kiên trì giải quyết tranh chấp biển, đảo bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế
* Kiên trì, kiên quyết thực hiện hai mục tiêu chiến lược, đó là:
(1) Độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề bất di bất dịch;
(2) Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng đất nước.
* Về chính sách:
Một là: Giải quyết kiên quyết các tranh chấp thông qua các giải pháp hòa bình; bằng sức mạnh tổng hợp: đấu tranh chính trị, ngoại giao, chứng cứ pháp lý, lịch sử và chuẩn bị phương án đưa ra trước tòa án quốc tế nếu cần. Chúng ta kiên trì, tránh xung đột, nhưng khi chủ quyền bị xâm phạm, chúng ta sẵn sàng chống trả bằng quyền tự vệ chính đáng.
Thứ hai: quản lý tốt mối quan hệ toàn vẹn, độc lập, chủ quyền, giữ vững hòa bình, ổn định.
Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, phải cố gắng cao nhất để giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ba là: Coi trọng quan hệ với Trung Quốc trong khuôn khổ hợp tác và đối tác chiến lược toàn diện, giữ vững hòa bình, hòa hợp, tăng cường đoàn kết hữu nghị, thực hiện các cam kết đã ký với Trung Quốc.
Với Trung Quốc, quan điểm của Đảng ta là xây dựng mối quan hệ “hợp tác toàn cầu và đối tác chiến lược” theo phương châm 16 chữ: 4 tốt: và 8 chữ “Hợp tác toàn cầu và đối tác chiến lược” toàn diện. Trong tình hình hiện nay, cần nhận thức rõ âm mưu, ý đồ và hành động của Trung Quốc nhằm độc chiếm Biển Đông - Trường Sa (đây là mục tiêu xuyên suốt của chúng) để chủ động, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc. . trên biển và các đảo.
Trung Quốc là "đối tác" cơ bản và toàn cầu của chúng tôi. Trung Quốc chỉ là “đối tượng” trong từng thời điểm, tình huống cụ thể. Mặt khác, chúng ta cũng không để các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo, kích động chia rẽ trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
Bốn là: thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ quốc tế. Trong quan hệ ngoại giao phải khôn khéo, không được dựa vào bên này để chống lại bên kia và ngược lại. Với suy nghĩ này, những vấn đề còn bất đồng, tranh chấp cần được giải quyết song phương, còn những vấn đề liên quan đến nhiều bên thì giải quyết đa phương, công khai, minh bạch giữa các nước có liên quan.
c) Chú trọng xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển và hải đảo hùng mạnh
- Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam: là lực lượng làm nhiệm vụ quản lý, duy trì thực thi pháp luật trên các vùng biển của đất nước, cần tiếp tục được củng cố, hoàn thiện về tổ chức biên chế, được tăng cường trang bị hiện đại, bảo đảm đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ trước mắt và đáp ứng yêu cầu phát triển trong tương lai. .
- Bộ đội B. Phòng thủ: được đầu tư bảo đảm đầy đủ trang thiết bị kỹ thuật, phương tiện vũ khí, phương tiện cơ động.... phòng, chống buôn lậu, tệ nạn xã hội trên vùng biển được phân công.
- Lực lượng dân quân tự vệ biển: được xây dựng theo phương châm “rộng khắp”, ở đâu có tàu, thuyền hoạt động trên biển, có dân định cư ở ven biển và trên đảo ở đó có dân quân tự vệ; lấy các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã làm nòng cốt; tổ chức, biên chế phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ của từng địa phương, bảo đảm tạo thành ba tuyến: ven bờ, lộng, khơi; coi trọng xây dựng lực lượng trên biển, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống
- Lực lượng Kiểm ngư: là lực lượng kiểm soát dân sự của Việt Nam, có đầy đủ thẩm quyền để phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm của tàu cá nước ngoài; hỗ trợ ngư dân, đảm bảo an ninh trật tự, bảo vệ chủ quyền quốc gia ở các vùng biển, đảo của Tổ quốc.
* Hải quân nhân dân Việt Nam: là lực lượng chuyên trách hoạt động trên biển-giữ vai trò nòng cốt và gánh vác trách nhiệm nặng nề trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các vùng biển, đảo của Tổ quốc cần được ưu tiên đầu tư xây dựng theo hướng hiện đại và có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đặc biệt là các lực lượng thường xuyên tuần tra trên biển và chốt giữ các đảo ở khơi xa.
Hải quân nhân dân Việt Nam được thành lập ngày 7 tháng 5 năm 1955. Trải qua hơn nửa thế kỷ xây dựng, chiến đấu và công tác, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, được sự yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ của các cấp ủy, chính quyền và nhân dân các địa phương trong cả nước, sự phối hợp, hiệp đồng của lực lượng bạn, Hải quân nhân dân Việt Nam đã không ngừng phát triển, trưởng thành nhanh chóng, chiến thắng vẻ vang, có nhiều đóng góp xứng đáng vào thắng lợi của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ đất nước, làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn, cũng như trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nhiều chiến công xuất sắc của Hải quân đã đi vào lịch sử như những biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Hải quân nhân dân Việt Nam được đầu tư xây dựng theo hướng hiện đại với lực lượng phòng không, không quân; Thông tin liên lạc, tác chiến điện tử, trinh sát kỹ thuật…
Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta: Phòng thủ của Việt Nam là hòa bình và tự vệ. Chúng tôi đang hiện đại hóa quân đội để phòng thủ, để bảo vệ tổ quốc, không chống lại bất kỳ quốc gia nào.
Nội dung bài viết:
Bình luận