Thực trạng hôn nhân và gia đình hiện nay

1. Chế độ hôn nhân là gì ?

Chế độ hôn nhân và gia đình là toàn bộ những quy định của pháp luật về kết hôn, ly hôn; quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài và những vấn đề khác liên quan đến hôn nhân và gia đình (Khoản 3, Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).

 

2. Những nguyên tắc cơ bản trong chế độ hôn nhân và gia đình 

Theo đó, tại Điều 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình được quy định như sau:

1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.

2. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

3. Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con.

4. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình.

5. Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình.

 

3. Những đặc trưng cơ bản của chế độ hôn nhân hiện nay:

Tuổi kết hôn: Đang có xu hướng gia tăng ở Việt Nam với cả nam và nữ. Năm 1989, tuổi kết hôn của nam là 24,5, nữ là 23,2. Năm 1999, nam là 25,5, nữ là 24. Năm 2009, nam là 26,3, nữ là 24. Năm 2014, nam là 26,8, nữ là 22,9… Tuổi kết hôn với người sống ở đô thị cao hơn so với người ở nông thôn, tuy nhiên ở những người con trai cả thì có xu hướng kết hôn sớm hơn.

* Quyền quyết định trong hôn nhân: Nét nổi bật là vai trò quyết định của cá nhân tăng, nhưng cha mẹ và gia đình vẫn có vai trò quan trọng trong việc tham khảo và tư vấn. Những đối tượng hiện có nhiều quyền quyết định trong hôn nhân đó là nam giới, những người sống ở đô thị, người kết hôn muộn, người có học vấn cao, người làm nhà nước… Tuy nhiên, những người là con cả/ con duy nhất… thì lại ít có quyền quyết định trong hôn nhân hơn.

* Tìm hiểu và lựa chọn bạn đời: Với câu hỏi “Những điều ông/bà cảm thấy ưng ý nhất khi chọn người kết hôn?” cho thấy người Việt khi kết hôn vẫn chú trọng nhiều đến tiêu chuẩn liên quan đến ứng xử, đạo đức… Có tới 49,4% thích lựa chọn người bạn đời ngoan hiền, 34,9% chọn người chăm chỉ, 32% chọn người biết cư xử, có đạo đức, 20,6% có quan điểm sống tốt, 17,4% biết làm ăn, 16,9 có sức khỏe, 13,7 có hình thức, 13% có gia đình nề nếp…; Có một số những tiêu chuẩn truyền thống cũ về việc lựa chọn bạn đời như môn đăng hậu đối, tuổi tác… đã dần thay đổi, không còn phù hợp như tiêu chuẩn về nghề nghiệp (chỉ có 8,7), học vấn (4,2%), có lý lịch tốt (3,5%), hợp tuổi (2,4%), con nhà khá giả (0,4%)…

* Sắp xếp nơi ở sau hôn nhân: Trước đây, hình thức chung sống với nhà chồng sau hôn nhân là phổ biến. Tuy nhiên đến nay, hình thức này đã có xu hướng thay đổi. Mặc dù vẫn còn 64,7% sống chung với gia đình chồng nhưng có sự đa dạng hơn về hình thức: Sống chung với nhà chồng và cả nhà vợ; Sống chung ăn chung, sống chung ăn riêng, sống chung một thời gian rồi tách riêng; sông riêng một thời gian rồi lại sống chung…

Ngoài ra, hiện đã có hình thức sắp xếp chỗ ở sau hôn nhân với sống riêng hoàn toàn là 24% và sống riêng với gia đình nhà vợ (11,3%).

Các nhóm vấn đề bất đồng giữa vợ và chồng: Nguyên nhân chủ yếu là do quan hệ vợ chồng không phù hợp về lối sống, thói quen, rạn nứt tình cảm…; Do tác động bởi kinh tế - việc làm, kiếm sống, quản lý tiền bạc…; Do các mối quan hệ với người khác – cha mẹ, bạn bè…; Do chăm sóc giáo dục con cái… Tuy nhiên, những bất đồng lớn nhất và phổ biến nhất giữa vợ và chồng hiện nay vẫn là sự không hài lòng về lối sống, suy nghĩ, thói quen…

Người có học vấn thấp, có sự bất đồng giữa vợ - chồng về làm ăn, quản lý tiền bạc nhiều hơn so với người có học vấn cao; Vợ chồng ở độ tuổi dưới 40 bất đồng về con cái nhiều hơn so với trên 40 tuổi. Ở khu vực đô thị, vợ chồng bất đồng về kinh tế ít hơn so với vợ chồng nông thôn nhưng bất đồng về tình cảm lại cao hơn…

* Yếu tố tạo ra sự hài lòng hôn nhân: Theo thang đánh giá điểm 10, thì mặt tình cảm vẫn được đánh giá cao nhất là 8,2 điểm. Hiểu biết lẫn nhau là 8,25 điểm, ứng xử vợ chồng là 8,21 điểm, làm việc nhà 8,09 điểm, tình dục là 8,08 điểm và cuối cùng là vật chất 7,58 điểm… Khẳng định, chất lượng hôn nhân đích thực đòi hỏi nhiều về các yếu tố tâm lý bên trong. Tình cảm vợ chồng, tính cách và sự ứng xử tốt với nhau luôn là quan trọng nhất, tác động nhiều nhất đến chất lượng của cuộc hôn nhân.

* Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng hôn nhân: Về giới tính, nam giới có sự hài lòng hơn nữ về mọi mặt hôn nhân, ở mọi lứa tuổi. Về độ tuổi, từ 40-49 và trên 60 tuổi có sự hài lòng hơn trong hôn nhân so với các lứa tuổi khác. Về khu vực – dân đô thị mức độ hài lòng về hôn nhân cao hơn. Về chênh lệch độ tuổi vợ chồng – chồng hơn vợ trên 6 tuổi hoặc ít hơn vợ, hoặc bằng tuổi vợ thì có sự hài lòng hơn với hôn nhân. Về mức độ tương tác vợ chồng –những cặp vợ chồng thể hiện tình cảm kín đáo – mạnh nhất, có hành động cụ thể (ôm, hôn…) yếu hơn, những cặp tặng quà ngày kỷ niệm yếu nhất… Về con cái, những cặp vợ chồng có 1 con hạnh phúc hơn so với có trên 2 con, giới tính của con không ảnh hưởng nhiều… Về sự tương đồng vợ chồng  hoặc chồng hơn vợ về học vấn, kinh tế, khả năng kiếm tiền, xuất thân… thì hôn nhân vẫn hạnh phúc hơn…

 

4. Chế độ hôn nhân một vợ một chồng: 

Để có được một cuộc hôn nhân trọn vẹn không chỉ dừng lại ở giai đoạn kết hôn. Thực trạng hôn nhân ở Việt Nam hiện nay, việc tuân thủ chế độ hôn nhân cũng là vấn đề nan giải.

Theo quy định tại điểm c khoản 2 điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về các hành vi bị cấm trong chế độ hôn nhân và gia đình: 

“Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;”.

Có thể thấy, pháp luật đã có những quy định cấm hành vi làm tổn hại đến quan hệ hôn nhân và gia đình và chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Những quy định này được đảm bảo thực hiện bằng chế tài được quy định tại điều 48 Nghị định 110/2013/NĐ-CP,

“Điều 48. Hành vi vi phạm quy định về cấm kết hôn, vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng; vi phạm quy định về ly hôn.

1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;

b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;

c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;

d) Kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;

đ) Kết hôn giữa cha mẹ nuôi với con nuôi;

e) Kết hôn giữa người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.

2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi lợi dụng việc ly hôn để vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để trốn tránh nghĩa vụ tài sản.”

Nhưng có thể thấy, mức phạt hành chính như trên là quá nhẹ và chưa đủ sức răn đe. Do đó, trên thực tế Có thể thấy, hiện tượng vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng vẫn diễn ra phổ biến.

 

“Theo thống kê, 60% các vụ ly hôn ở Việt Nam có yếu tố bạo lực gia đình và trung bình, cứ ba vụ ly hôn thì có một vụ do nguyên nhân ngoại tình” Bài viết trên đưa ra những con số thống kê về thực trạng ngoại tình dẫn tới ly hôn của người Việt Nam. Theo Từ điển tiếng Việt, Ngoại tình là động từ chỉ quan hệ yêu đương bất chính với người không phải vợ hoặc chồng của mình. Nếu xét theo quy định của pháp luật, ngoại tình không vi phạm quy định của pháp luật nhưng có thể nói, đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới vi phạm chế độ hộ nhân một vợ một chồng.

 

5. Nguyên nhân của tình trạng vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng.

Dựa trên Thực trạng hôn nhân ở Việt Nam hiện nay có thể đưa ra một lý do như sau.

Thứ nhất, do hai bên nam nữ chưa tìm hiểu rõ về nhau khi tiến tới hôn nhân, do vậy khi bước vào cuộc sống hôn nhân có những bất đồng mâu thuẫn khiến mục đích hôn nhân không thể đạt được;

Thứ hai, do đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao kéo theo những nhu cầu cá nhân cũng tăng theo;

Thứ ba, do hoàn cảnh công việc, mỗi cá nhân đều phải mở mang thêm nhiều mối quan hệ.

Hiện tượng vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng có khả năng rất cao dẫn tới cuộc ly hôn của vợ chồng, nếu không có biện pháp hiệu quả sẽ gây ra nhiều bất ổn trong xã hội.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo