Thực trạng hôn nhân đồng giới ở Việt Nam

Luật Hôn nhân và Gia đình 2018 có cho phép người đồng tính đăng ký kết hôn và được công nhận là cặp đôi khác giới? Nếu không thì đăng ký kết hôn khi nào có? Xin cảm ơn luật sư!

Hôn nhân đồng giới và giải quyết tranh chấp
Thực trạng hôn nhân đồng giới ở Việt Nam

1. Hôn nhân đồng giới là gì?

Hôn nhân đồng giới hay hôn nhân đồng giới là hôn nhân giữa hai người có cùng giới tính sinh học. Hôn nhân đồng giới đôi khi được gọi là "bình đẳng hôn nhân" hoặc "bình đẳng hôn nhân", một thuật ngữ thường được sử dụng bởi những người ủng hộ nó. Việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới cũng được mô tả bằng thuật ngữ "định nghĩa lại hôn nhân" từ các trường phái tư tưởng đối lập.

2. Hôn nhân đồng giới có được công nhận ở Việt Nam không?

Hôn nhân đồng giới là một vấn đề rất nhạy cảm không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn thế giới, kể cả ở các nước phát triển. Hôn nhân đồng giới là hôn nhân giữa hai người có cùng giới tính sinh học, có sự đồng cảm và chia sẻ khó khăn với nhau trong cuộc sống. Những người đồng giới cũng mong muốn như những người bình thường được sống trong một gia đình với người mình yêu thương, được quan tâm, chăm sóc nên đã nảy sinh hôn nhân đồng giới.
Trước đây, theo Luật Hôn nhân và Gia đình 2000, hôn nhân đồng giới bị cấm. Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi 2014 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2015. Quốc hội đã bãi bỏ quy định cấm này và thay thế bằng Điều 8, Khoản 2, quy định: “Nhà nước không công nhận hôn nhân đồng giới. Mặc dù Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 nghiêm cấm hôn nhân đồng giới, nhưng Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi 2014 đã loại bỏ quy định “cấm kết hôn đồng giới” từ ngày 1 tháng 1 năm 2015. Tuy nhiên, luật 2014 vẫn quy định “không công nhận hôn nhân đồng giới” (khoản 2, điều 8).[1] Theo báo Tuổi trẻ, những người đồng giới vẫn có thể chung sống với nhau nhưng pháp luật sẽ không xử lý nếu giữa họ có tranh chấp.

Không thừa nhận có nghĩa là pháp luật không cho phép những người cùng giới tính đăng ký kết hôn với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc không được coi là vợ chồng với các quyền và nghĩa vụ tương ứng.
Như vậy, theo quy định trên thì hôn nhân đồng giới không còn bị cấm. Người đồng tính có thể kết hôn và chung sống với nhau nhưng trong mắt pháp luật họ không được coi là vợ chồng và không được đăng ký kết hôn với cơ quan nhà nước.
Đó là kết quả của quá trình vận động và thảo luận xã hội trong nhiều năm, khiến các nhà lập pháp trở nên tích cực hơn về quyền kết hôn, bình đẳng giới và các cặp đồng giới. . Hơn nữa, theo Điều 8 Nghị định 87/2011/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình đã hết hiệu lực thì:

“Phạt tiền từ 100.000 đến 500.000 đồng đối với hành vi kết hôn đồng giới”.
Hiện nay, theo Nghị định 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự. Trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, Điều 48 có quy định về hành vi vi phạm quy định về cấm kết hôn, vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng (phạt tiền từ 1 triệu đồng đến 3 triệu đồng). ), hành vi “kết hôn giữa những người cùng giới tính” đã bị bãi bỏ.

3. Khi nào hôn nhân đồng giới được công nhận tại Việt Nam?

Theo thống kê được cung cấp, ở Việt Nam có khoảng 2,5 triệu người đồng tính. Con số này không nhỏ nhưng cũng không lớn so với một đất nước có dân số gần 90 triệu người.
Xã hội ngày nay nhìn vấn đề này rất khác. Nhiều người xem vấn đề này liên quan đến quyền con người, thể hiện tính nhân văn và giảm bớt sự kỳ thị của xã hội. Tuy nhiên, ở khía cạnh khác, hôn nhân đồng giới được cho là không phù hợp với thuần phong mỹ tục, truyền thống gia đình Việt Nam, quy luật sinh học, không đảm bảo chức năng duy trì nòi giống của gia đình. Điều quan trọng, việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới kéo theo nhiều hệ lụy xã hội tiêu cực mà pháp luật chưa lường hết được. Việc cho phép và công nhận hôn nhân đồng giới là chưa đủ nếu chỉ đưa ra một quy định trong Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 mà cần xem xét sửa đổi, bổ sung các quy định khác của hệ thống pháp luật. Chẳng hạn, hoàn thiện các quy định giải quyết hậu quả của việc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng giới tính về quan hệ tài sản, xác định cha, mẹ, con và quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con. , vân vân. Theo các nguyên tắc được quy định trong luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm tính thống nhất, tính khả thi, vừa xuất phát từ thực tế khách quan vừa từ bản chất.

4. Việt Nam có cho phép chuyển giới không?

Thứ nhất, theo thống kê của Bộ Y tế đăng tải trên một số tờ báo uy tín, số người có nhu cầu chuyển đổi giới tính ở Việt Nam dao động từ 250.000 đến 300.000 người. Do đó, đây là một con số rất cao phản ánh nhu cầu thực tế đối với hiện trạng xã hội.
Thứ hai, trong những năm gần đây, bên cạnh công tác tuyên truyền của nhà nước, xã hội đã nhìn nhận và không còn thái độ kỳ thị đối với người chuyển giới. Điều này cũng được thể hiện trong quy trình lập pháp của Quốc hội, bao gồm:

Theo quy định tại Điều 36 Bộ luật Dân sự năm 2015 và Nghị định số 88/2008/NĐ-CP ngày 05/8/2008 của Chính phủ có quy định liên quan đến quyền chuyển đổi giới tính:

“Điều 36: Quyền chuyển đổi giới tính

1. Cá nhân có quyền xác định lại giới tính.
Việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường hợp giới tính của người đó sinh ra bị dị tật bẩm sinh hoặc hình thành không bình thường và cần có sự can thiệp của y tế để xác định giới tính. 2. Việc xác định lại giới tính phải tuân theo quy định của pháp luật.
3. Người đã thay đổi giới tính có quyền và nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính được xác định lại theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.
Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của pháp luật. Người đã thay đổi giới tính có quyền và nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan. (Điều 37 BLDS 2015)

Như vậy, có thể nói, cánh cửa chuyển đổi giới tính đã được mở, cho phép những người đã chuyển đổi giới tính được đăng ký lại giới tính thật của mình. Và mở việc soạn thảo dự luật xác định lại giới tính cho phép những người muốn xác định lại giới tính thật của mình được tiến hành trong khuôn khổ pháp luật.
Đăng ký lại giới tính được quy định tại Mục 3 Luật hộ tịch 2014, bao gồm:

Điều 3. Nội dung hộ tịch

2. Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của một người theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền:

c) Xác định lại giới tính…

Thứ ba, vấn đề quan trọng nhất là việc ban hành các văn bản quy định chi tiết cụ thể trong luật chuyển giới do Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp với các bộ ngành (Bộ Y tế) soạn thảo luật chuyển giới và lấy ý kiến ​​đóng góp của người dân. Trong dự án này, các ý kiến ​​​​cũng được thu thập về các vấn đề nhạy cảm nhất như: Độ tuổi hợp pháp để chuyển đổi giới tính (trong dự án dự kiến ​​​​là 18), và nhiều vấn đề pháp lý khác cần được giải quyết. Hướng dẫn chi tiết như: Có chính sách hỗ trợ tài chính cho người chuyển giới không? (Thực tế là người chuyển giới cũng rất tốn kém về mặt tài chính) Cơ quan nào được phép thực hiện chuyển đổi giới tính (Phẫu thuật chuyển giới là một ca phẫu thuật phức tạp không phải cơ sở nào cũng thực hiện được)… Một lần nữa, người chuyển giới vẫn phải chờ những quy định chính xác và chi tiết hơn .

5. Những quốc gia nào trên thế giới đã công nhận hôn nhân đồng giới?

Hôn nhân đồng giới có thể được cử hành đơn giản hoặc theo nghi thức tôn giáo. Nhiều cộng đồng tôn giáo trên thế giới đã cho phép hai người đồng giới kết hôn hoặc thực hiện hôn nhân đồng giới, ví dụ: Phật giáo ở Đài Loan, Úc, Giáo hội ở Thụy Điển, Giáo hội Trưởng lão, Giáo hội Do Thái giáo, Giáo hội Thống nhất Canada.
Trước khi công nhận hôn nhân đồng giới, nhiều nước đã có luật cho phép các cặp đồng giới đăng ký chung sống với nhau gọi là kết hợp dân sự, quy định quyền và nghĩa vụ như Đan Mạch từ 1989, Nauy năm 1993.
Năm 2019, trong số 220 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới có 28 quốc gia/vùng lãnh thổ chính thức công nhận hôn nhân đồng giới, bao gồm: Áo Argentina, Bỉ, Bồ Đào Nha, Brazil, Canada, Colombia, Đan Mạch, Đài Loan, Đức, Ecuador, Hà Lan, Hoa Kỳ , Iceland, Ireland, Luxembourg, Malta, Mexico (chỉ một số bang nhất định), Na Uy, Nam Phi, New Zealand (ngoại trừ Niue, Tokelau và Quần đảo Cook), Pháp, Phần Lan, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Úc, Uruguay, Vương quốc Anh (ngoại trừ Ireland ). Tuy nhiên, hiện nay, hơn 80 quốc gia/vùng lãnh thổ vẫn coi hành vi quan hệ tình dục đồng giới là tội phạm, thậm chí một số quốc gia còn áp dụng hình phạt tử hình đối với những người thực hiện hành vi quan hệ tình dục đồng giới. Các quốc gia/vùng lãnh thổ còn lại có chính sách trung lập không coi đồng tính luyến ái là bất hợp pháp nhưng cũng không công nhận hôn nhân đồng giới.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo