Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả xin đề cập đến các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện và thời hiệu khởi kiện trong một số vụ việc dân sự cụ thể.
1. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỜI HẠN TRÁCH NHIỆM
1.1.Áp dụng thời hiệu
Điều 149 BLDS và Điều 181 BLTTDS đều quy định Tòa án chỉ áp dụng thời hiệu khi có yêu cầu của một bên hoặc các bên về việc áp dụng thời hiệu, với điều kiện yêu cầu này được đưa ra trước tòa sơ thẩm, xét xử bản án và quyết định giải quyết vụ án.
Về vấn đề này, trong thực tiễn xét xử tại Tòa án vẫn còn có ý kiến khác nhau. Một mặt thẩm phán phải giải thích, mặt khác thẩm phán không được giải thích cho đương sự về việc đương sự có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các quy định của pháp luật này trong thời hiệu được biết. rằng thời hiệu đã hết. Vì hậu quả pháp lý là hoàn toàn khác nhau. Nếu Thẩm phán giải thích theo yêu cầu của các bên đương sự thì Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án hoặc đình chỉ việc giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nếu Thẩm phán không tự giải thích và đương sự không biết quyền yêu cầu áp dụng thời hiệu thì Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
Tại khoản 1 và điểm a khoản 4 Điều 210 BLDS năm 2015 quy định tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Thẩm phán phải thông báo cho các bên có liên quan về quyền và nghĩa vụ của các bên. phù hợp với quy định của BLHS và quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án. Như vậy, các đương sự tham gia tố tụng hoàn toàn bình đẳng về quyền và nghĩa vụ và các đương sự phải được Tòa án giải thích đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình. Do đó, thẩm phán phải giải thích cho đương sự quyền yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu.
1.2. Thời hiệu không áp dụng
Theo quy định tại Điều 155 Bộ luật dân sự 2015 thì thời hiệu khởi kiện không áp dụng trong các trường hợp sau đây:
– Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản. - Đơn yêu cầu bảo hộ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
- Các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
- Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
1.3.Thời hạn không tính vào thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự
Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Thời điểm không tính vào thời hiệu khởi kiện dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết vụ án dân sự là thời hạn mà một trong các sự kiện sau đây xảy ra:
- Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể không thể khởi kiện, yêu cầu bồi thường trong thời hiệu.
Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan, không thể lường trước được và không thể khắc phục được ngay cả khi đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và cho phép.
Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình;
– Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có quyền yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
– Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có người đại diện khác thay thế trong trường hợp sau đây:
Người đại diện chết nếu là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân;
Người đại diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được.
1.4. Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
Điều 157 BLDS năm 2015 quy định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong trường hợp sau đây:
– Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;
– Bên có nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;
– Các bên đã tự hòa giải với nhau.
Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra sự kiện theo các trường hợp nêu trên.
2.THỜI HIỆU KHỞI KIỆN ĐỐI VỚI MỘT SỐ TRANH CHẤP DÂN SỰ
2.1.Thời hiệu thừa kế
Về thời hiệu thừa kế, theo quy định tại Điều 623 của BLDS năm 2015 thì:
Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ đối với tài sản do người chết để lại là 03 năm, kể từ ngày mở thừa kế.
Như vậy, thời điểm tính thời hiệu thừa kế là thời điểm mở thừa kế. Theo quy định tại khoản 1 Điều 611 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì thời điểm mở thừa kế là thời điểm chủ sở hữu chết. Trong trường hợp tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 Bộ luật Dân sự 2015.
Hiện nay, về cách tính thời hiệu thừa kế khi mở thừa kế trước ngày 01/01/2017 (ngày BLDS 2015 có hiệu lực), có ý kiến cho rằng phải tính từ ngày mở thừa kế. (người chết) nhưng cũng có ý kiến cho rằng đối với trường hợp mở thừa kế trước ngày 10/9/1990 thì thời hiệu thừa kế được tính từ ngày 10/9/1990 theo quy định của Pháp lệnh Thừa kế 1990, Bộ luật Dân sự năm 2010. năm 1990, 1995 và các văn bản hướng dẫn có liên quan.
Nghiên cứu quy định của BLDS năm 2015 và văn bản hướng dẫn liên quan, tác giả thấy rằng:
– Tại khoản 1 Điều 688 BLDS năm 2015 quy định như sau: “1. Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật này có hiệu lực thì việc áp dụng pháp luật được quy định như sau: d) Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này.”
– Tại Tiểu mục 1 Mục III Công văn số 01/GĐ-TANDTC ngày 25/7/2016 của TANDTC giải đáp một số vấn đề về hình sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự hướng dẫn: “… Kể từ ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy định tại Điều 623 BLDS năm 2015 để xác định thời hiệu đối với trường hợp thời điểm mở thừa kế trước ngày 01-01-2017…”
Tại khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn: “Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật” quy định tại điểm d khoản 3 Điều 192 BLTTDS năm 2015 là các trường hợp trong BLTTDS năm 2015 chưa quy định nhưng đã được quy định trong Nghị quyết này, các văn bản quy phạm pháp luật khác hoặc trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. “Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật” quy định trong Nghị quyết này là:
- a) Đối với những vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản mà trước ngày 01-01-2017, Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện hoặc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì lý do “thời hiệu khởi kiện đã hết” nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015 thời hiệu khởi kiện vụ án đó vẫn còn, thì người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015 và điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- b) Đối với những vụ án dân sự chia tài sản chung là di sản thừa kế đã hết thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà trước ngày 01-01-2017 Tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì chưa đủ điều kiện khởi kiện chia tài sản chung, nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 thời hiệu khởi kiện vụ án chia thừa kế đối với di sản thừa kế đó vẫn còn, thì người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 và điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
– Tại Mục I về dân sự Công văn số 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018 của TANDTC giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ có hướng dẫn:
“Kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 4 Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính thì từ ngày 01-01-2017, Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thời hiệu thừa kế để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp về thừa kế tài sản”. Theo đó, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế.
Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990.
Khi xác đ dẫn tại Nghị quởi kiện chia di sản thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01-7-1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 01-7-1996 đến ngày 01-01-1999 không tính vào thkiện chia di sản thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01-7 Nam định cư ở nước ngoài tham gia; thời gian từ ngày 01-7-1996 đến ngày 01-9-2006 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa kế có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia.”
Quy định về thời hiệu thừa kế tại Điều 623 của BLDS năm 2015 là quy định mới so với quy định về thừa kế của BLDS năm 2005. Theo quy định tại Điều 645 của BLDS năm 2005, thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
2.2.Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại
Theo quy định tại Điều 588 của BLDS năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Đây là điểm mới so với quy định của BLDS năm 2005. Theo quy định tại Điều 607 của BLDS năm 2005 thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 02 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xạm hại.
2.3.Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu
Theo quy định tại khoản 1 Điều 132 của BLDS năm 2015 thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu đối với: [1] giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện;[2] giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn; [3] giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép; [4] giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình và [5] giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 02 năm, kể từ ngày:
– Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch;
– Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối;
– Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép;
– Người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch;
– Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức.
Đối với giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội; giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế. Đây là điểm mới so với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005. Theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì áp dụng thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu: có hiệu lực, do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện; [2] giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn; [3] giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối hoặc bị đe dọa; [4] giao dịch dân sự vô hiệu do người khởi xướng không nhận thức được hành vi của mình và không kiểm soát được hành vi đó; [5] Hành vi dân sự vô hiệu do không tuân thủ các quy tắc về hình thức là hai năm kể từ ngày xác lập hành vi dân sự. Đối với hành vi dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội và hành vi dân sự vô hiệu do giả tạo thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hành vi dân sự vô hiệu không bị giới hạn về chế tài.
2.4. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng
Theo quy định tại Điều 429 Bộ luật dân sự 2015 thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày nguyên đơn biết hoặc phải biết về quyền và lợi ích hợp pháp của mình. vi phạm.
Đây là điểm mới so với quy định của BLDS 2005. Theo quy định tại Điều 427 của BLDS năm 2005 thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 02 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xạm hại.
2.5.Thời hiệu khởi kiện theo quy định của luật khác có liên quan
Theo hướng dẫn tại Điều 4 của Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn về việc thi hành BLTTDS và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành chính thì:
“Khi thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, vụ án hành chính thì cần lưu ý như sau: … Từ ngày 01-01-2017, Tòa án áp dụng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 và luật khác có liên quan về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu để thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động”.
Như vậy, đối với các tranh chấp dân sự mà có quy định riêng thì thời hiệu khởi kiện áp dụng theo luật chuyên ngành. Có nhiều luật khác quy định về thời hiệu khởi kiện, tác giả liệt kêthời hiệu khỏi kiện một số tranh chấp dân sự cụ thể như sau:
– Yêu cầu Nhà nước bồi thường: 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu bồi thường quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 5 của Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước 2017nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 52 của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 và trường hợp yêu cầu phục hồi danh dự (Điều 6 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017).
– Khởi kiện đòi bồi thường do sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng gây thiệt hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường: 02 năm, kể từ thời điểm các bên được thông báo về thiệt hại với điều kiện thiệt hại xảy ra trong thời hạn sử dụng của sản phẩm, hàng hóa có ghi hạn sử dụng và 5 năm kể từ ngày giao hàng đối với sản phẩm, hàng hóa không ghi hạn sử dụng (Điều 56 Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa 2007).
– Khởi kiện người chấp nhận, người phát hành, người ký phát, người bảo lãnh cho người bị ký phát trong trường hợp người thụ hưởng không xuất trình công cụ chuyển nhượng để thanh toán đúng hạn theo quy định tại Điều 43 và Điều 69 của Luật Các công cụ chuyển nhượng 2005 hoặc không gửi thông báo về việc công cụ chuyển nhượng bị từ chối chấp nhận hoặc bị từ chối thanh toán trong thời hạn quy định tại Điều 50 của Luật Các công cụ chuyển nhượng 2005: 02 năm, kể từ ngày ký phát công cụ chuyển nhượng (Điều 78 Luật Các công cụ chuyển nhượng 2005).
– Khởi kiện người ký phát, người phát hành, người chuyển nhượng trước mình, người bảo lãnh, người chấp nhận về số tiền quy định tại Điều 52 của Luật Các công cụ chuyển nhượng 2005 đối với người có liên quan bị khởi kiện theo quy định tại Điều 76 của Luật Các công cụ chuyển nhượng 2005 có quyền: 02 năm, Kể từ ngày người có liên quan này hoàn thành nghĩa vụ thanh toán công cụ chuyển nhượng (Điều 78 Luật Các công cụ chuyển nhượng 2005)
– Khởi kiện người ký phát, người phát hành, người bảo lãnh, người chuyển nhượng, người chấp nhận yêu cầu thanh toán số tiền quy định tại Điều 52 của Luật Các công cụ chuyển nhượng 2005 đối với người thụ hưởng: 03 năm, kể từ ngày công cụ chuyển nhượng bị từ chối chấp nhận hoặc bị từ chối thanh toán (Điều 78 Luật Các công cụ chuyển nhượng 2005).
– Khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với người thứ ba ở mặt đất: 02 năm, kể từ ngày phát sinh sự kiện gây thiệt hại (Điều 186 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 2006).
– Khởi kiện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người vận chuyển đối với thiệt hại xảy ra cho hành khách, hành lý, hàng hóa: 02 năm, kể từ ngày tàu bay đến địa điểm đến, ngày tàu bay phải đến địa điểm đến hoặc từ ngày việc vận chuyển bị chấm dứt, tùy thuộc vào thời điểm nào muộn nhất (Điều 174 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 2006).
– Yêu cầu giải quyết tranh chấp về khám bệnh, chữa bệnh: 05 năm, kể từ khi sự việc xảy ra (khoản 3 Điều 80 Luật Khám chữa bệnh 2009). – Khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm: 03 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp (điều 30 luật bảo hiểm năm 2000, sửa đổi bổ sung năm 2010).
Khởi kiện liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hải: 02 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp (điều 336 Bộ luật hàng hải 2015). – Khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành khách chết, bị thương hoặc các tổn hại khác đối với sức khỏe và mất mát, hư hỏng hành lý: 02 năm kể từ ngày hành khách rời tàu (đối với trường hợp hành khách bị thương) ; 02 năm kể từ ngày hành khách rời tàu (trường hợp hành khách chết trong quá trình vận chuyển); 02 năm kể từ ngày người này chết nhưng không quá 03 năm kể từ ngày rời tàu biển (trường hợp hành khách bị thương trong quá trình vận chuyển dẫn đến hành khách này chết sau khi rời tàu biển); 02 năm kể từ ngày hành khách khởi hành hoặc hành khách khởi hành tùy theo ngày nào đến sau (trong trường hợp mất mát, hư hỏng hành lý) (Điều 214 Bộ luật Hàng hải 2015)
– Khởi kiện đâm va: 02 năm kể từ ngày xảy ra tai nạn (Điều 290 Bộ luật Hàng hải 2015).
Nội dung bài viết:
Bình luận