1. Khái niệm cách mạng công nghiệp 4.0
Thuật ngữ "Cách mạng công nghiệp lần thứ tư" đã được áp dụng cho những phát triển công nghệ quan trọng một vài lần trong 75 năm qua và được dùng để thảo luận học thuật. Khái niệm Công nghiệp 4.0 hay nhà máy thông minh lần đầu tiên được giới thiệu tại Hội chợ Công nghiệp Hannover ở Cộng hòa Liên bang Đức vào năm 2011. Công nghiệp 4.0 nhằm mục đích thông minh hóa quy trình sản xuất và quản lý trong ngành sản xuất. Sự ra đời của Công nghiệp 4.0 ở Đức đã thúc đẩy các quốc gia tiên tiến khác như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Ấn Độ thúc đẩy phát triển các chương trình tương tự để duy trì lợi thế cạnh tranh của họ. Cụ thể, nó là một "thuật ngữ chỉ các công nghệ và khái niệm của các tổ chức chuỗi giá trị" được liên kết với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet vạn vật (IoT) và Internet dịch vụ (IoS). Hiện tại, Công nghiệp 4.0 đã vượt ra khỏi khuôn khổ dự án của Đức với sự tham gia của nhiều quốc gia và trở thành một phần quan trọng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 hay còn gọi là công nghiệp 4.0 là xu hướng tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất hiện nay. Nó bao gồm các mạng vật lý, Internet vạn vật và điện toán đám mây. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 không chỉ là về các máy móc và hệ thống được kết nối và thông minh, mà còn có phạm vi rộng lớn hơn nhiều. Đồng thời, làn sóng đột phá mới đang diễn ra trong các lĩnh vực từ kỹ thuật di truyền đến công nghệ nano, từ năng lượng tái tạo đến điện toán lượng tử. Công nghiệp 4.0 tạo điều kiện hình thành các "nhà máy thông minh" hay "nhà máy số". Trong các nhà máy thông minh này, các hệ thống vật lý không gian mạng sẽ giám sát các quy trình vật lý, tạo ra một bản sao ảo của thế giới vật lý. Với IoT, các hệ thống vật lý ảo này tương tác với nhau và với mọi người trong thời gian thực và nhờ có IoS, người dùng sẽ tham gia vào chuỗi giá trị thông qua việc sử dụng các dịch vụ này.

thi trắc nghiệm pháp luật đại cương online
2. Đối với luật sở hữu trí tuệ:
Tác động trực tiếp đến Luật Sở hữu trí tuệ: Tác động đáng kể nhất liên quan đến lĩnh vực này là bản quyền sở hữu trí tuệ, cụ thể là trong việc xác định quyền tác giả hoặc hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với các tác phẩm do robot hoặc ứng dụng trí tuệ nhân tạo tạo ra. Vấn đề này vẫn còn những tranh luận khác nhau, xu hướng thứ nhất cho rằng chủ thể của bản quyền không còn là con người mà là những trí tuệ nhân tạo có thể tạo ra tác phẩm độc lập với con người. Do đó, quyền tác giả trong trí tuệ nhân tạo được cấp cho chủ thể tạo ra tác phẩm và đảm bảo các yếu tố được công nhận là tác giả. Các yếu tố để được công nhận là tác giả trí tuệ nhân tạo tuân theo các quy định của pháp luật về quyền tác giả được quy định tại Đạo luật tác giả con người. Xu hướng thứ hai là bản quyền AI thuộc về cá nhân, tổ chức với mọi sản phẩm do AI tạo ra hoặc thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức đó. Theo đó, chủ thể của quyền tác giả sẽ thay đổi, không còn là sản phẩm do con người tạo ra mà là sản phẩm do cả trí tuệ nhân tạo tạo ra. Tại Việt Nam, trí tuệ nhân tạo có mặt trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực như y tế, ngân hàng, thiết kế, hàng không hay nấu ăn, sản xuất âm nhạc, v.v. Tuy nhiên, trong hệ thống pháp luật hiện hành vẫn còn những lỗ hổng liên quan đến trí tuệ nhân tạo và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ về trí tuệ nhân tạo. Một trong những nguyên nhân của vấn đề này là do việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo để tạo ra các công trình có giá trị khoa học chưa phổ biến, chủ thể sáng tạo vẫn là con người, trí tuệ nhân tạo mới chỉ được ứng dụng như một công cụ hỗ trợ trong quá trình làm việc, sản xuất. Trí tuệ nhân tạo xuất hiện trong mọi mặt của đời sống xã hội Việt Nam, nhưng việc người ta sử dụng trí tuệ nhân tạo như một thực thể thông minh để có thể sáng tạo ra một tác phẩm thì cực hiếm, và có lẽ các nhà lập pháp cho rằng vấn đề này chưa cấp bách. Với xu thế nhanh chóng hiện nay, việc bảo hộ bản quyền trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam là cần thiết để bảo vệ quyền tác giả nói chung và bản quyền trí tuệ nhân tạo nói riêng một cách hiệu quả nhất.
3. Đối với pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư:
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 ngày nay có những tác động không nhỏ đến các mối quan hệ của mọi cá nhân trong xã hội theo cả hướng tích cực và tiêu cực. Vì vậy, cần hình thành và phát triển một cách tiếp cận và ứng dụng khoa học công nghệ mới trong xây dựng và thực thi pháp luật liên quan đến vấn đề này. Thứ nhất, tác động của công nghệ đến việc hình thành cơ sở dữ liệu thống kê hộ tịch điện tử, quản lý hộ tịch và giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử là hết sức cần thiết và kịp thời trong xã hội hiện đại ngày nay, đó là lý do chính phủ ban hành Nghị định 47/2020/NĐ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2020 quy định về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước và Nghị định số. Căn cước công dân của cá nhân được ghi nhận theo quy định của pháp luật, bằng thiết bị số, trên môi trường mạng, thông qua phần mềm đăng ký và quản lý hộ tịch điện tử dùng chung. Bên cạnh đó là những thông tin hộ tịch khác của cá nhân cũng tiếp tục được cập nhật như đăng ký kết hôn, cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, giám hộ, nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi...Những thông tin hộ tịch được lấy từ nguồn do cá nhân đã đăng ký, đã được số hoá, chuẩn hoá từ sổ hộ tịch, từ việc được kết nối, chia sẻ từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Điều này giúp cho việc tìm kiếm dữ liệu nhanh chóng, chính xác, thuận tiện, thông tin cập nhật kịp thời, dễ dàng chia sẻ. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là việc xây dựng, cập nhật, quản lý, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu này phải đảm bảo việc bảo vệ đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình…đây là vấn đề không hề đơn giản trong sự phát triển mạnh mẽ của của cách mạng công nghiệp 4.0 ngày nay.
4. Đối với pháp luật tố tụng dân sự:
Trong thời đại công nghiệp 4.0 việc sử dụng thiết bị điện tử kỹ thuật số, mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng xã hội… Việc sử dụng các công cụ này đã để lại các dấu vết điện tử được ghi lại, lưu truyền dưới dạng dữ liệu điện tử như logfile, IP, mã độc, domain, thời gian, không gian mạng, thư điện tử, nickname, chat, tin nhắn…đây là chứng cứ được lưu trữ lại trong bộ nhớ của các thiết bị kỹ thuật số một cách tự động, khách quan, tồn tại dưới dạng những tín hiệu điện tử, có thể nhận biết, phát hiện, bảo quản, và ghi lại vào ổ USB, đĩa CD/VCD…hoặc in ra giấy, ảnh và có thể sử dụng làm chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án. Hiện nay, trong lĩnh vực dân sự, các đương sự đã sử dụng dữ liệu điện tử để chứng minh cho yêu cầu của mình cũng như phản bác lại yêu cầu đó, Tòa án cũng sử dụng dữ liệu điện tử như một nguồn chứng cứ để xác định chứng cứ phục vụ cho việc giải quyết các vụ án dân sự. Để sử dụng dữ liệu điện tử làm chứng cứ trong vụ án cần đáp ứng một số yêu cầu như: Việc thu thập dữ liệu điện tử phải đúng pháp luật; chứng cứ điện tử làm cơ sở tố tụng phải phù hợp và cần thiết, hợp pháp và tuân thủ yêu cầu tố tụng; đảm bảo tính xác thực, toàn vẹn hoặc chính xác. Thông tin được trích xuất từ dữ liệu điện tử để được coi là chứng cứ phải đảm bảo các tính chất: tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Để đảm bảo tính chất của chứng cứ điện tử, việc thu thập, đánh giá chứng cứ phải tuân thủ các quy định của pháp luật. Về cơ bản, bằng chứng điện tử có thể bị thay đổi, hư hỏng hoặc bị phá hủy do xử lý hoặc kiểm tra không đúng cách. Do đó, các biện pháp phòng ngừa phải được thực hiện để cho phép thu thập bằng chứng điện tử một cách thích hợp. Hiện nay, Điều 94 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử, khoản 3 Điều 95 còn quy định để xác định tính hợp pháp của chứng cứ điện tử thì nguồn chứng cứ là thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tửphải được cung cấp, thu thập, đánh giá, bảo quản, bảo vệ theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 97 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về biện pháp thu thập chứng cứ của Toà án nhưng lại không quy định về biện pháp thu thập nguồn dữ liệu điện tử của Toà án cũng như trình tự, thủ tục thu thập nguồn dữ liệu điện tử. Do đó, cần thiết phải hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới tiếp tục hoàn thiện việc xây dựng toà án điện tử trong giải quyết các vụ, việc dân sự, thông qua đó sẽ nâng cao khả năng tiếp cận công lý và các thông tin của công dân, giảm bớt các công việc hành chính tại toà án, hỗ trợ thẩm phán trong việc thực hiện nhiệm vụ xét xử, nâng cao tính minh bạch trong hoạt động xét xử của toà án. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển mạnh mẽ, yêu cầu đặt ra là phải có tầm nhìn chiến lược và hành động quyết liệt để nắm bắt cơ hội và giải quyết thách thức. Trong bối cảnh đó, các cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp cần phải sửa đổi cách tiếp cận và tư duy pháp luật theo hướng chuyển từ thụ động, “chạy theo” các sự kiện, hiện tượng xã hội và quan hệ xã hội sang chủ động, đón đầu và định hướng các quan hệ xã hội. Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ giúp các quốc gia phát triển thịnh vượng hơn, kết nối và hội nhập nhanh chóng, dễ dàng hơn, bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức và nhà nước.
5. Về pháp luật lao động
Công nghiệp 4.0 đang ở giai đoạn sơ khai, một bước chiến lược quan trọng để các nước đang phát triển tiến lên phía trước và bắt kịp xu hướng toàn cầu. Tuy nhiên, những yếu tố mà các nước đang phát triển như Việt Nam coi là lợi thế như lực lượng lao động trẻ và giá rẻ sẽ không còn lợi thế rõ rệt, thậm chí bị đe dọa nghiêm trọng. Theo ước tính của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), có tới 86% lao động trong ngành dệt may và da giày Việt Nam có nguy cơ mất việc làm cao dưới tác động của những đột phá công nghệ do Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Rủi ro này có thể chuyển hóa thành tác hại lớn khi các ngành như dệt may, da giày đã tạo ra một lượng lớn việc làm cho lao động trong nước. Khi thời kỳ “dân số vàng” đến gần, trong 25 năm qua, tổng số lao động Việt Nam đã tăng thêm khoảng 22 triệu người, từ 75 triệu người (năm 1995) lên 97 triệu người (năm 2020). Đây là lợi thế khi nhiều nước phát triển cắt giảm nguồn lao động, nhưng lại là điểm yếu khi máy móc thay thế con người. Hơn nữa, Việt Nam đang nỗ lực thoát khỏi “bẫy” thu nhập trung bình, nhưng lại không có nhiều nguồn lực để đối phó như các nước phát triển. Điều đó cũng có nghĩa, lợi thế to lớn về nguồn nhân lực hiện nay rất có thể trở thành lực cản cho quá trình phát triển trong tương lai, nếu không chủ động chống lại những tác động tiêu cực của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong khi đó, đối với ngành CNTT tại Việt Nam, ước tính mỗi năm nhu cầu tuyển dụng tiếp tục tăng đều gần 50%, trong khi thực tế với 500.000 cử nhân CNTT thì chỉ có 8% đáp ứng được nhu cầu này. Thực tế này cho thấy chất lượng nguồn nhân lực kỹ thuật đang trở thành yêu cầu cấp thiết hiện nay. Trong bối cảnh đó, Bộ luật Lao động 2019 vừa có hiệu lực đã có sự phát triển so với Bộ luật Lao động 2012 nhằm bám sát những bước tiến của cuộc cách mạng công nghiệp như: - Về hợp đồng lao động: Tăng khả năng hiển thị của các mối quan hệ công việc diễn ra trong thực tế. Chấp nhận hợp đồng lao động điện tử dưới dạng thông điệp dữ liệu. Không còn hợp đồng thời vụ hoặc vị trí cụ thể. Không áp dụng thời gian thử việc đối với hợp đồng lao động dưới 1 tháng. Hai trường hợp tạm hoãn hợp đồng lao động khác. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần lý do. Bổ sung quy định về các trường hợp được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần báo trước. 02 trường hợp người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không cần báo trước. Quy định hợp lý về thời hạn giải quyết và trách nhiệm của hai bên khi chấm dứt hợp đồng lao động. Về nội dung bắt buộc của hợp đồng lao động, hiện nay chỉ cần ghi tên, địa chỉ của người sử dụng lao động hoặc người đại diện theo pháp luật, từ ngày 01/01/2021 bắt buộc phải có “Tên, địa chỉ của người sử dụng lao động và họ, tên, chức danh của người giao kết hợp đồng lao động bên phía người sử dụng lao động”. Như vậy, đã có sự cởi mở hơn về hình thức hợp đồng lao động. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, người lao động có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng để đảm bảo quyền lợi của mình. - Quy chế lương thưởng mới Người sử dụng lao động không được ép buộc người lao động dùng tiền lương của mình để mua hàng hóa, dịch vụ của đơn vị mình hoặc của đơn vị khác. Người sử dụng lao động phải thông báo phiếu lương của nhân viên với mỗi lần trả lương. Quy định mới về lãi suất khi tính bồi thường chậm trả lương cho người lao động. Người sử dụng lao động phải chịu chi phí mở tài khoản cho người lao động nếu trả lương qua ngân hàng. Chế độ ốm đau được trả khi người lao động phải ngừng việc do sự cố điện, nước mà không do lỗi của người sử dụng lao động hoặc do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, địch họa, di dời chỗ ở theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc vì lý do kinh tế. Còn nhiều trường hợp khác, người lao động được phép nghỉ riêng và hưởng nguyên lương. Người lao động được nghỉ 2 ngày dịp lễ Quốc khánh 2/9 và hưởng nguyên lương. Người lao động có thể nghỉ việc không báo trước nếu không được trả lương đúng hạn. Người lao động làm công việc nặng nhọc khi mang thai có thể được giảm bớt một giờ làm việc hàng ngày và hưởng nguyên lương Như vậy, hệ thống tiền lương được quy định rõ ràng hơn. Việc gia tăng nhiều trường hợp nghỉ hưởng nguyên lương tạo điều kiện cho người lao động được hưởng lợi từ việc đảm bảo thu nhập, nhất là trong những trường hợp bất khả kháng như dịch bệnh, thiên tai… - Quy định mới về thời giờ làm việc và nghỉ ngơi Quy định chi tiết về việc người sử dụng lao động phải thông báo thời giờ làm việc cho người lao động. Không còn quy định về thời giờ làm việc cố định không quá 06 giờ trong ngày đối với người làm công việc đặc biệt nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại. Thời gian làm thêm không quá 40h/tháng (hiện nay không quá 30h/tháng). Có nhiều trường hợp khác, người sử dụng lao động được phép sử dụng nhân viên của họ để làm việc ngoài giờ lên đến 300 giờ mỗi năm. Không hạn chế số giờ làm thêm trong trường hợp đặc biệt. Người lao động có thể từ chối làm thêm giờ trong những trường hợp cụ thể nếu công việc này có nguy cơ ảnh hưởng đến tính mạng và sức khỏe của người lao động. Người lao động sẽ được nghỉ 2 ngày từ dịp Quốc khánh 2/9 (hiện tại được nghỉ 01 ngày). Còn nhiều trường hợp khác, người lao động được phép nghỉ riêng và hưởng nguyên lương. Người lao động lớn tuổi có thể thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc giảm thời gian làm việc (hiện do người sử dụng lao động quyết định). Người lao động làm công việc nặng nhọc khi mang thai được giảm 01 giờ làm việc hàng ngày (Hiện nay, người lao động làm công việc nặng nhọc khi mang thai từ tháng thứ 07 chỉ được chuyển làm công việc nhẹ hơn hoặc được giảm 01 giờ làm việc hàng ngày mà vẫn được hưởng nguyên lương). - Người sử dụng lao động có trách nhiệm quy định lịch nghỉ hằng năm cho người lao động (hiện nay không quy định việc này thuộc trách nhiệm của người sử dụng lao động). - Những công việc đặc biệt hơn được quy định thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi riêng. Trước sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khối lượng công việc ngày càng nhiều và các quy định về thời gian làm việc, nghỉ ngơi là rất cần thiết. công việc đặc biệt nặng nhọc, nguy hiểm được quan tâm. Một số quy định về thời gian làm việc của lao động nữ mang thai và lao động lớn tuổi nhằm đảm bảo sức khỏe, tránh trường hợp bị cưỡng bức lao động.
Nội dung bài viết:
Bình luận