1. Khái niệm về người thứ ba ngay tình

Pháp luật dân sự qua từng thời kì đều đề cập đến vấn đề này, song chưa có một quy định cụ thể nào định nghĩa về người thứ ba ngay tình. Dựa vào các quy định pháp luật liên quan và thuật ngữ thông dụng, quan điểm của chúng tôi như sau:
Điều 180 BLDS năm 2015 có quy định về việc chiếm hữu ngay tình là “việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu”. Đồng thời, Từ điển Luật học có giải thích rằng: “Người thứ ba ngay tình khi tham gia giao dịch dân sự vô hiệu là người được chuyển giao tài sản thông qua giao dịch mà họ không biết, không buộc phải biết tài sản đó do người chuyển giao cho họ thu được từ một giao dịch dân sự vô hiệu”
Như vậy, có thể hiểu người thứ ba ngay tình là người chiếm hữu tài sản ngay tình thông qua một giao dịch dân sự vô hiệu, nhưng bản thân họ hoàn toàn trung thực khi tham gia giao dịch mà không hề biết rằng người giao dịch với họ không có quyền chuyển giao tài sản đó. Việc giao dịch dân sự đó vô hiệu không phải lỗi của họ.
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta đều tham gia vào các quan hệ dân sự. Đó là căn cứ làm phát sinh, thay đổi chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của chủ thể tham gia giao dịch.
Thông qua các giao dịch đó, các chủ thể trao đổi, tìm kiếm cơ hội để đạt được mục đích chính của mình. Tuy nhiên, đối tượng của giao dịch dân sự không chỉ dừng lại ở một giao dịch mà nó tham gia vào rất nhiều giao dịch khác với nhiều chủ thể khác nhau. Bộ luật dân sự đã có quy định cơ chế bảo vệ người thứ ba ngay tình. So với các Bộ luật Dân sự trước đây, Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định chặt chẽ hơn, chi tiết hơn và theo hướng bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người thứ ba ngay tình có thiện chí khi giao dịch dân sự vô hiệu.
2. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình
Trong giao dịch dân sự vô hiệu, bản thân người thứ ba ngay tình hoàn toàn không có lỗi nên các giao dịch được tạo lập hợp pháp sẽ được pháp luật bảo vệ. Cụ thể tại Điều 133 BLDS 2015 có quy định như sau:
Điều 133. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu
- Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167 của Bộ luật này.
- Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.
Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.
- Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.
Theo quy định trên thì tuỳ từng loại giao dịch dân sự mà pháp luật sẽ đưa ra những quy định bảo vệ khách nhau đối với người thứ ba ngay tình để đảm bảo rằng họ không bị thiệt thòi. Ví dụ trong một trường hợp cụ thể: A là một người được Toà án công nhận mất năng lực hành vi dân sự và cũng là chủ sở hữu một mảnh đất. B lợi dụng nhận thức yếu kém của A để thực hiện hành vi chuyển quyền sử dụng mạnh đất đó cho mình. Sau đó B bán mảnh đất đó cho C và C đã đăng ký quyền sử dụng với mảnh đất trên. Trong trường hợp này theo quy định tại Khoản 1 Điều 133 BLDS 2015 thì C được coi là người thứ ba ngay tình nên giao dịch giữa B và C vẫn có hiệu lực.
3. Các điều kiện để người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi
Các điều kiện để người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi khi giao dịch dân sự vô hiệu theo Điều 133 BLDS 2015 đó là:
Thứ nhất, trước khi người thứ ba tham gia vào giao dịch dân sự thì đã có một giao dịch dân sự trước được xác lập, thực hiện nhưng giao dịch dân sự trước đó đã bị vô hiệu.
Thứ hai, người thứ ba xác lập giao dịch dân sự phải ngay tình. Nghĩa là, người thứ ba không biết hoặc không thể biết những giao dịch trước đó bị vô hiệu bởi bất cứ lý do nào, họ có căn cứ tin rằng đối tượng và chủ thể giao dịch với mình đủ điều kiện mà pháp luật quy định. Thường những trường hợp như thế này xảy ra đối với tài sản là động sản không phải đăng ký như: Gia súc, gia cầm, vàng, điện thoại di động…
Thứ ba, tài sản đưa ra giao dịch phải được phép giao dịch. BLDS không quy định về tài sản được phép giao dịch nhưng căn cứ khoản 10 Điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định về giao dịch đảm bảo có nêu “tài sản được phép giao dịch là tài sản không bị cấm giao dịch theo quy định của pháp luật tại thời điểm xác lập giao dịch đảm bảo”. Qua quy định này có thể hiểu “tài sản được phép giao dịch là tài sản không bị cấm giao dịch theo quy định của pháp luật”. Đối với các loại tài sản mà pháp luật quy định cấm lưu thông (ma túy, động vật hoang dã quý hiếm…) thì người thứ ba buộc phải biết và việc xác lập giao dịch đối với loại tài sản này đều bất hợp pháp, không được pháp luật bảo vệ. Còn đối với loại tài sản mà pháp luật quy định hạn chế lưu thông (ngoại tệ, vũ khí) thì chỉ khi đảm bảo các điều kiện ràng buộc kèm theo thì giao dịch dân sự đó mới có hiệu lực pháp luật.
Thứ tư, người thứ ba có được tài sản thông qua giao dịch dân sự có đền bù. Đó là những giao dịch mà trong đó một bên sau khi thực hiện nghĩa vụ của mình đối với bên kia thì sẽ nhận được những lợi ích vật chất từ phía bên kia. Khi đó, giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực. Tuy nhiên, với những loại tài sản bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu và chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản đó.
Trái lại, trường hợp người thứ ba có được tài sản thông qua giao dịch dân sự không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản như: tặng cho, thừa kế…thì quyền lợi của người thứ ba sẽ không được pháp luật bảo vệ. Khi đó chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản.
Tùy vào đặc thù của từng loại tài sản nên có những tài sản là đối tượng của giao dịch dân sự phải đăng ký thì giao dịch dân sự với người thứ ba mới phát sinh hiệu lực pháp luật. Do vậy, tài sản chưa được đăng ký thì người thứ ba mặc dù ngay tình nhưng cũng không được pháp luật bảo vệ quyền lợi và phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Điều này, đảm bảo cho các quy định của pháp luật về việc đăng ký tài sản được áp dụng nghiêm minh, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả quản lý tài sản của Nhà nước mà chủ yếu là bất động sản. Cũng có những trường hợp, giao dịch với người thứ ba chưa đăng ký nhưng pháp luật vẫn bảo vệ người thứ ba khi công nhận giao dịch đó có hiệu lực pháp luật, cụ thể: Người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa (khoản 2 Điều 133 BLDS 2015).
Nội dung bài viết:
Bình luận