thế nào là bảo tồn di sản văn hóa
1. Khái niệm bảo tồn di sản văn hóa
Có nhiều quan niệm, định nghĩa về thuật ngữ “bảo tồn” và bảo tồn di sản văn hóa.
Bảo tồn di sản là những nỗ lực nhằm bảo vệ và gìn giữ sự tồn tại của di sản ở dạng nguyên bản.
Bảo tồn là bảo vệ, giữ gìn sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng ở dạng vốn có của chúng. Giữ gìn là giữ gìn, không để mất mát, không để bị thay đổi, biến chất, xuyên tạc. Đối tượng bảo tồn (tức là giá trị vật thể và phi vật thể của di sản văn hóa) phải đáp ứng hai điều kiện:
Đầu tiên, nó phải được coi là tinh hoa, là giá trị thực được nhìn nhận một cách minh bạch hoàn toàn, không nghi ngờ hay tranh cãi.
Thứ hai, nó phải chứa đựng khả năng, ít nhất là tiềm năng, đứng vững lâu dài, có giá trị gấp nhiều lần (tức là có giá trị trường tồn) trước những biến đổi tất yếu của đời sống vật chất và tinh thần của con người, nhất là trong bối cảnh kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa diễn ra vô cùng sôi động.
2. Triển vọng bảo tồn
Còn nhiều quan điểm khác nhau về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Nhưng trên thế giới vẫn tồn tại hai quan điểm như sau: Bảo tồn nguyên vẹn và bảo tồn trên cơ sở kế thừa.
2.1. Chế độ xem bảo tồn nguyên vẹn
Bảo quản nguyên vẹn còn được hiểu là bảo quản ở dạng tĩnh. Đối với di sản văn hóa vật thể, bảo tồn nguyên trạng là việc áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, công nghệ cao nhằm bảo đảm giữ nguyên trạng của hiện vật về kích thước, vị trí, chất liệu, đường nét, màu sắc, kiểu dáng. Khi cần trùng tu phải sử dụng có hiệu quả các phương tiện kỹ thuật như: Công nghệ đồ họa vi tính 3D trong không gian ba chiều, chụp ảnh, băng ghi hình, xác định trọng lượng và thành phần vật chất của di sản văn hóa vật thể. Sau khi bảo quản nguyên vẹn, dữ liệu cần được so sánh với nguyên mẫu đã được bảo quản chi tiết để không bị biến dạng.
Đối với di sản văn hóa phi vật thể, bảo tồn nguyên vẹn là việc điều tra, sưu tầm, sưu tầm các loại hình văn hóa phi vật thể như chúng đang tồn tại thông qua một quy trình khoa học chặt chẽ, lưu giữ chúng dưới dạng sổ sách, ghi chép, mô tả bằng băng hình (video), băng ghi âm (audio), ảnh chụp... Tất cả những hiện tượng văn hóa phi vật thể này đều có thể được bảo quản trong các kho lưu trữ, bảo tàng.
Quan điểm bảo tồn nguyên trạng được nhiều nhà nghiên cứu vận dụng trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Từ giữa tháng 4/2017, nhóm chuyên gia Ấn Độ và các nhà nghiên cứu Việt Nam đã tiến hành khai quật, trùng tu tối tân tháp K và H trong vùng lõi Quần thể Di sản văn hóa thế giới Mỹ Sơn, xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Trong quá trình khai quật, nhóm chuyên gia đã phát hiện ra một con đường cổ xưa dẫn đến tòa tháp. Theo quan sát, tuyến đường cũ vừa được phát hiện phía sau tháp K rộng khoảng 10m, nằm giữa hai bức tường song song. Tường chính mỗi bên rộng 0,6m, móng tường chính nằm sâu cách mặt đất khoảng 1m, được xây bằng gạch nung và phụ gia kết dính đặc biệt, nhiều đoạn tường chính còn khá nguyên vẹn.
Để bảo tồn di sản quý giá này, thay vì chỉ trùng tu tháp K, các chuyên gia Ấn Độ và Việt Nam đã thống nhất phương án tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ là trùng tu, chống đổ tháp K và trùng tu, bảo tồn đoạn đầu đường và hai phần tường chính dài khoảng 50 m. Việc trùng tu được thực hiện với quan điểm bảo tồn nguyên vẹn nhất có thể các giá trị di sản cổ xưa, để mọi thứ từ vật liệu, kiến trúc của di tích cho đến những phát hiện mới trong quá trình khai quật đều được đánh dấu và bảo quản một cách cẩn trọng.
Với quan điểm bảo tồn nguyên vẹn, di sản văn hóa sẽ được bảo vệ trong môi trường khép kín, tránh mọi tác động từ môi trường bên ngoài. Xu hướng này đã mang lại hiệu quả rõ rệt, giúp bảo tồn nhiều giá trị văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, đối với di sản văn hóa phi vật thể, nó luôn gắn bó với đời sống con người, với môi trường xã hội nên luôn biến đổi cùng cuộc sống. Nếu giữ nguyên hiện trạng sẽ bộc lộ hạn chế của hiện tượng “đông cứng”, “khô héo” DSVH.
2.2. Quan điểm bảo tồn di sản
Bảo quản dựa trên kế thừa còn được gọi là bảo quản động. Bảo tồn động, tức là bảo tồn các hiện tượng văn hóa trên cơ sở di sản. Các di sản văn hóa vật thể sẽ được bảo tồn trên tinh thần bảo tồn những đặc trưng cơ bản của di tích, cố gắng khôi phục lại nguyên trạng bằng nhiều kỹ thuật công nghệ hiện đại. Đối với di sản văn hóa phi vật thể, bảo tồn động là bảo tồn những hiện tượng văn hóa đó một cách trực tiếp trong đời sống cộng đồng. Bởi cộng đồng không chỉ là môi trường sản sinh ra các hiện tượng văn hóa phi vật thể mà còn là nơi gìn giữ, bảo vệ, làm phong phú và phát huy chúng một cách tốt nhất trong đời sống xã hội. Phải phục hồi giá trị một cách khách quan, minh bạch, tin cậy và khoa học chứ không thể chủ quan, tùy tiện. Tất cả các giá trị phải được kiểm chứng bằng nhiều phương pháp nghiên cứu có tính chuyên môn cao, có giá trị thực nghiệm thuyết phục thông qua các dự án điều tra, sưu tầm, bảo quản, phiên dịch và công bố các di vật di sản văn hóa phi vật thể.
Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ được hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ 19 trên cơ sở nhã nhạc, nhã nhạc cung đình Huế và văn hóa dân gian. ĐCTT là một loại hình nghệ thuật dân gian đặc trưng của vùng đất phương Nam, mang đậm dấu ấn của công cuộc mở đất phương Nam và theo thời gian, nghệ thuật ĐCTT đã phát triển cả về chuyên nghiệp lẫn dân gian và nghiệp dư. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, nghệ thuật ĐCTT luôn khẳng định giá trị của một loại hình di sản văn hóa phi vật thể, có ảnh hưởng sâu rộng trong sinh hoạt văn hóa của người dân Nam Bộ.
Theo ý kiến của nhiều học giả, hiện nay, tính độc đáo, vốn gốc của đờn ca tài tử mang đậm giá trị văn hóa đặc trưng của người dân Nam Bộ đang bị lãng quên và có nhiều biến tướng. Bên cạnh đó, việc truyền nghề Đờn ca tài tử chưa có chiến lược sâu rộng, số lượng người tham gia ít, thiếu chuyên môn. Hầu hết các nhạc công nghiệp dư đều biết chơi đàn do học hỏi hoặc học hỏi từ gia đình, chưa được đào tạo để chơi nên sức mạnh của các nhạc sĩ, nghệ sĩ trong lĩnh vực này còn yếu về chất lượng, thiếu về số lượng.
Cần xác định Đờn ca tài tử Nam Bộ là sản phẩm văn hóa phi vật thể, trên thực tế tài liệu về loại hình này rất hiếm, do đó công tác sưu tầm, nghiên cứu là rất cần thiết, nhằm hệ thống hóa, biên soạn thành tài liệu chính thức, nhằm bảo tồn, truyền dạy và tiếp tục phát triển loại hình này. Để công tác nghiên cứu, sưu tầm đạt kết quả tốt cần thực hiện các biện pháp nghiệp vụ như điều tra xã hội học về nhu cầu của quần chúng đối với loại hình nghệ thuật này, hệ thống hóa theo từng nhóm chuyên đề, tổ chức các hội thảo, tọa đàm về Đờn ca tài tử Nam Bộ; Sau khi sưu tầm sẽ phổ biến rộng rãi trong cộng đồng Nam Bộ.
Cả hai quan điểm này đều có ưu và nhược điểm riêng. Trong khi bảo tồn ở trạng thái nguyên vẹn cho phép các thế hệ tương lai dễ dàng phục hồi các giá trị di sản gốc, thì khó khăn nằm ở chỗ cần có phương pháp xác định cụ thể yếu tố gốc và yếu tố phái sinh để quyết định nên giữ nguyên yếu tố nào. Bên cạnh đó, bảo tồn di sản nhấn mạnh đến việc lựa chọn những giá trị phù hợp với các thời đại để phát huy. Tuy nhiên, việc xác định giá trị nào phù hợp và giá trị nào không luôn gây tranh cãi, dễ dẫn đến trường hợp bác bỏ giá trị nào nếu không có sự tìm hiểu, nghiên cứu thấu đáo. Theo đó, để thoát khỏi những tranh cãi về cách bảo tồn cái gốc, nên kế thừa di sản từ quá khứ mà tập trung vào việc di sản sống và vận hành như thế nào trong đời sống đương đại.
Như vậy, trong cuộc sống ngày nay, đối với di sản văn hóa, vấn đề bảo tồn nguyên vẹn hay bảo tồn di sản không quan trọng bằng việc xác định việc bảo tồn di sản này là để làm gì và cho ai, cho chính quyền, cho cộng đồng địa phương hay cho du khách.
Nội dung bài viết:
Bình luận