Thẩm quyền ra lệnh tạm giam bị can, bị cáo trước khi xét xử

1. Ai có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam trước khi xét xử? 

Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự mới nhất, bị can có thể được hiểu  là thể nhân hoặc pháp nhân đã bị cơ quan điều tra tiến hành tố tụng hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua việc người đại diện theo pháp luật của pháp nhân nhân danh pháp nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. 

  Thông thường, các bị cáo là thể nhân hoặc  pháp nhân đã bị Tòa án  xét xử. Quyền và nghĩa vụ của  pháp nhân bị buộc tội được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của pháp luật hình sự. 

  Hiện nay, pháp luật hình sự cho phép những người sau đây có quyền ra lệnh hoặc quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam trước khi xét xử, bao gồm: 

 

 Người có thẩm quyền  bắt bị can, bị cáo để tạm giam thuộc  thẩm quyền của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này,  người có thẩm quyền ra lệnh bắt phải được sự đồng ý của Cơ quan công tố cùng cấp  trước khi thi hành lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam. 

 

 Trong thời gian bắt bị can, bị cáo để tạm giam trước khi xét xử thuộc thẩm quyền của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp đối với bên quân sự.  

 Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử có thẩm quyền được quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam để phục vụ cho việc giải quyết vụ án hình sự.  

 Khi người có thẩm quyền ra lệnh bắt, quyết định phê chuẩn lệnh, quyết định bắt phải ghi rõ đầy đủ họ tên, địa chỉ của những người bị bắt; lý do bắt là gì và các nội dung quy định như số văn bản , ngày, tháng, năm hiện tại, địa điểm mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã ban hành văn bản tố tụng; Khi ra lệnh bắt bị can, bị cáo thì phải có các căn cứ pháp lý để ban hành văn bản tố tụng; Ghi rõ các nội dung của văn bản tố tụng; Ghi đầy đủ họ tên, chức vụ, chữ ký của người tiến hành tố tụng để ban hành văn bản tố tụng và đóng dấu theo quy định. 

  Khi các cơ quan tiến hành tố tụng bắt tạm giam các bị can, bị cáo thì những người thi hành lệnh, quyết định phải đọc lệnh, quyết định; giải thích lệnh, quyết định, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt; giao lệnh, quyết định cho người bị bắt theo đúng trình tự thủ tục của luật định.  

 Khi những người có thẩm quyền của cơ quan tố tụng thực hiện việc tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người khác chứng kiến khi bắt tạm giam bị can,bị cáo. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc, học tập phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người theo trình tự thủ tục của bộ luật tố tụng hình sự. 

 Hiện nay, khi các cơ quan tố tụng  bắt  bị can, bị cáo để tạm giam trước khi xét xử thì không được phép bắt người vào ban đêm trong mọi trường hợp, trừ trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã. Theo quy định của pháp luật hình sự mới nhất thì thời hạn do Bộ luật này quy định được tính bằng giờ, ngày, tháng, năm. Đêm được tính từ 10 giờ đêm đến 6 giờ sáng  hôm sau.  

 2. Cơ quan nào có quyền ra lệnh, quyết định bắt  người phạm tội?

  Hiện nay, không phải cơ quan nào cũng có thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam trước khi xét xử để phục vụ cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án mà chỉ có những cơ quan được pháp luật quy định cụ thể. Cơ quan tố tụng hình sự mới có thẩm quyền  bắt bị can, bị cáo bao gồm các cơ quan có thẩm quyền bắt bị can, bị cáo gồm các cơ quan sau: 

 

 Cơ quan điều tra là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng, có  chức năng, nhiệm vụ áp dụng tất cả các biện pháp do bộ luật hình sự quy định như  tạm giữ, tạm giam trước khi xét xử, bị can, bị cáo và  điều tra mọi tội phạm có dấu hiệu tội phạm. các dấu hiệu vi phạm pháp luật xảy ra trên địa bàn quản lý hoặc thuộc thẩm quyền xử lý của mình. 

 Cơ quan điều tra Công an nhân dân hiện nay bao gồm Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh, Công an cấp  huyện, thành phố trực thuộc tỉnh, Cơ quan An ninh điều tra. Bộ Công an và cơ quan An ninh điều tra các cấp theo thẩm quyền. 

 

  Trong Quân đội nhân dân có Cơ quan điều tra hình sự  thuộc Bộ Quốc phòng, Cơ quan An ninh điều tra quân khu và  tương đương theo quy định của pháp luật hình sự.  

 3. Thẩm quyền quyết định tạm giam bị can, bị cáo: 

 Theo quy định của pháp luật, có thể áp dụng tạm giam trước khi xét xử đối với  bị can, bị cáo về tội phạm  rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.  

 Khi các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành bắt tạm giam bị can, bị cáo thì hình thức tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp: 

 

 Khi các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác nhưng bị can, bị cáo vẫn tiếp tục vi phạm thì sẽ được thực hiện các biện pháp tạm giam.  

 Khi các bị can, bị cáo không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can ảnh hưởng đến việc điều tra, giải quyết vụ án hình sự; 

 

 Khi các cơ quan tiến hành tổ tụng có căn cứ cho rằng các bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; 

 

 Khi các bị can, bị cáo có dấu hiệu tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; 

 

 Khi giải quyết vụ án thì các bị can, bị cáo c hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này để gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án mà các cơ quan tố tụng đã thụ lý giải quyết. 

 

  Thẩm quyền ra quyết định tạm giam bị can bị cáo như sau: 

 

 Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do phó thủ trưởng, thủ trưởng người đứng đầu của các cơ quan điều tra các cấp ra quyết định. Trước khi ra quyết định thì lệnh bắt phải được viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi tiến hành bắt tạm giam. 

  Trong giai đoạn truy tố thì thẩm quyền ra quyết định bắt bị can, bị cáo do viện phó, viện trưởng viên kiểm sát nhân dân và viện kiểm sát quân sự các cấp quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam giải quyết vụ án.  Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp, kể cả Thẩm phán giữ chức vụ Chánh án, Phó Thẩm phán và Phòng xét xử quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam trước khi xét xử trong thời gian xét xử. theo quy định.  

 4. Điều kiện áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam trước khi xét xử: 

 Theo quy định của BLTTHS 2015 Biện pháp và căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn: “Nhằm ngăn chặn kịp thời  tội phạm hoặc khi có căn cứ để chứng minh bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc  tiếp tục phạm tội cũng như khi cần bảo đảm việc thi hành án thì cơ quan điều tra, cơ quan công tố, toà án có thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của bộ luật này có thể áp dụng một trong các các biện pháp ngăn chặn sau: bắt, tạm giữ, tạm giam trước khi xét xử, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh, đặt tiền hoặc vật có giá trị để bảo vệ. dũng cảm". Như vậy, bản chất pháp lý của  biện pháp giam giữ được xác định bởi sự hạn chế tạm thời quyền tự do của người bị áp dụng, mặc dù mức độ hạn chế quyền tự do ở mỗi biện pháp giam giữ là không giống nhau. 

 

 

  1. Giới thiệu về đối tượng ứng dụng: 

 

 Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về trường hợp bắt bị can để tạm giam để tạm giam. Đối tượng áp dụng được xác định cụ thể là bị can, bị cáo,  người đã bị khởi tố về  hình sự hoặc đã bị Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Người chưa là đối tượng bị  tố tụng hình sự hoặc  chưa bị Tòa án  xét xử thì không phải là đối tượng áp dụng của quy định này. 

  1. Điều kiện áp dụng.  

 Như đã phân tích ở trên thì bị can, bị cáo là đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn này nhưng lại không quy định cụ thể việc bắt để tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các trường hợp nào nhưng không phải mọi bị can bị cáo đều có thể hoặc cần bắt để tạm giam mà chỉ bắt tạm giam đối với những bị can bị cáo nào nếu xét thấy cần thiết. Mục đích trong trường hợp bắt người này là để tạm giam, cho nên trước khi quyết định bắt cơ quan có thẩm quyền cần xác định có cần thiết bắt bị can, bị cáo để tạm giam hay không. Thông thường các cơ quan tiến hành tố tụng thường căn cứ vào tính chất của tội phạm bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các đặc điểm về nhân thân cũng như thái độ chấp hành pháp luật của bị can bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án. Những vấn đề này có thể được xem xét riêng rẽ trong một số trường hợp như phạm tội gây nguy hại rất lớn hay đặc biệt lớn cho xã hội. bị can, bị cáo phạm tội trong các trường hợp này thì việc bắt để tạm giam họ là rất cần thiết vì trước hết, các tội phạm trên pháp luật quy định việc xử lý rất nghiêm khắc do tính chất, mức độ nguy hiểm cao của chúng, mặt khắc phần lớn người phạm tội cũng nhận thức được trách nhiệm pháp lý mà họ phải chịu vì đã thực hiện hành vi phạm tội đó là rất nặng nề cho nên thường tìm mọi cách để trốn tránh gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.  Tuy nhiên, để đảm bảo cho việc bắt để tạm giam là hoàn toàn chính đáng và hết sức cần thiết thì các yếu tố trên thường được xem xét trong mối quan hệ mật thiết với nhau. Chẳng hạn, có trường hợp mặc dù bị can, bị cáo đã bị khởi tố, điều tra, truy tố hoặc Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử về tội  ít nghiêm trọng hoặc tội  nghiêm trọng, người ác cũng như người có lý do để tin tưởng. bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì việc ra quyết định bắt để tạm giam là cần thiết đối với những trường hợp này. 

  Thứ nhất, biện pháp này chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam trước khi xét xử là bắt người đã có quyết định khởi tố bị can, người có quyết định của Tòa án đưa họ về tạm giam trước khi xét xử để  tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố và xét xử. . thi hành án". () Điều này có nghĩa là những người không phải là đối tượng bị  tố tụng hình sự hoặc  chưa bị tòa án ra quyết định  xét xử thì không được tạm giam.  

 Thứ hai, các trường hợp  tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015  là: 

 

 

 - Đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng,  là tội gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội thì mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc hình sự. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại  lớn cho xã hội và mức cao nhất của  hình phạt đối với tội này là 15 năm tù. Xuất phát từ tính chất nguy hiểm  của tội phạm, xâm phạm nghiêm trọng  các  quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nên việc áp dụng  biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng là cần thiết cho quá trình giải quyết vụ án, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử nhằm khám phá sự thật  vụ án một cách nhanh chóng, kịp thời.  

 – Đối với bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng mà Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người này bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể truy tố tội phạm. Để có thể bắt bị cáo tạm giam trước khi xét xử trong vụ án này thì phải có đủ 2 điều kiện sau: 

Thứ nhất, bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng nhưng có mức án phạt tù trên 2 năm. Điều này có nghĩa là không áp dụng biện pháp tạm giam trước khi xét xử đối với bị cáo và cảnh cáo mà Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định hình phạt tù có thời hạn dưới 2 năm đối với tội giết con mới đẻ. Tố tụng hình sự 2015)…điều kiện thứ hai có căn cứ là người đó trốn tránh, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Việc xác định bị can, bị cáo có  trốn tránh, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể phạm tội hay không thường căn cứ vào yêu cầu của việc điều tra, truy tố, xét xử và sự cần thiết của việc điều tra. bị cảnh cáo, cảnh cáo trong thời gian áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhẹ hơn biện pháp tạm giam trước khi xét xử. 

 

 Thứ ba, đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi,  già yếu,  bệnh nặng nhưng có nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn. phạm tội hoặc cố ý ngăn cản  việc điều tra, truy tố, xét xử  bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ  căn cứ để cho rằng nếu không xử lý, giam giữ họ  sẽ gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia.

thẩm quyền ra lệnh tạm giam

thẩm quyền ra lệnh tạm giam

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo