Quy định về việc xem xét và thẩm định tại chỗ trong tố tụng dân sự

Xem xét, giám định tại chỗ là biện pháp trong quá trình tố tụng nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ từ phía tòa án, chứng minh quyền khởi kiện của nguyên đơn. Vậy khám giám định tại chỗ trong tố tụng dân sự được quy định như thế nào?

T71397
Quy định về việc xem xét và thẩm định tại chỗ trong tố tụng dân sự

1. Khái niệm Luật tố tụng dân sự Việt Nam

Quyền và lợi ích của chủ thể là vấn đề quan trọng, là động lực của chủ thể khi tham gia các quan hệ xã hội. Tuy ở những mức độ khác nhau nhưng pháp luật các nước trên thế giới đều ghi nhận và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể không trái pháp luật và được nhà nước bảo vệ gọi là quyền và lợi ích hợp pháp.
Xã hội là một hệ thống các mối quan hệ đa dạng và phức tạp. Khi tham gia các quan hệ xã hội, các chủ thể phải thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật có thể ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác, dẫn đến kiện tụng. Để duy trì trật tự xã hội, nhà nước thiết lập cơ chế pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Theo đó, người, cơ quan, tổ chức hoặc chủ thể khác có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để bảo vệ quyền và lợi ích đó như yêu cầu người có hành vi trái pháp luật chấm dứt hành vi trái pháp luật, khởi kiện ra tòa án hoặc các cơ quan khác. cơ quan nhà nước có thẩm quyền để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Theo quy định tại Điều 2 Luật Tổ chức TAND năm 2014, Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Thông qua hoạt động của mình, tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội, có ý thức đấu tranh chống phạm pháp và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Vì vậy, khi chủ thể có yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có vi phạm, tranh chấp thì tòa án cần xem xét thụ lý giải quyết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên đó. Các vụ việc phát sinh từ quah hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và giầ đình, kinh doanh, thương mại và lao động do toà án giải quyết được gọi là vụ việc dân Sự. Trong đó, đốỉ với những việc có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên được gọi là vụ án dân sự; đối với những việc không có ữanh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên được gọi là việc dân sự.

Quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự là quá trình phức tạp, bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự, đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chửng, người giám định, người phiên dịch, người định giá tài sản, người thẩm định giá tài sản (sau đây gội chung là người định giá tài sản) và những người có liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân Sự như cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ các chứng cứ tài liệu của vụ việc dân sự v.v.. Các chủ thể này tham gia vào quá trình này với những mục đích, động cơ, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau và giữa họ nảy sinh các quan hệ khác nhau như quan hệ giữa toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự với đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch và người liên quan; quan hệ giữa toà án, viện kiểm sật, cơ quan thi hành án dân sự với nhau và quan hệ giữa các đương sự với người liên quan. Từ đó, tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự thành ngành luật được gọi là luật tố tụng dân sự. Từ đó, có thể định nghĩa pháp luật tố tụng dân sự như sau:

Luật tố tụng dân sự Việt Nam là một ngành luật của hệ thống pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ hoạt động tố tụng dân sự nhằm bảo vệ việc giải quyết vụ án dân sự và thi hành án dân sự được nhanh chóng, đúng đắn. án dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của Nhà nước.

2. Khái niệm chứng minh

Theo quy định tại Điều 93 Bộ luật tố tụng dân sự, khái niệm chứng minh được định nghĩa như sau:

“Chứng cứ trong vụ án dân sự là vật có thực được đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc được Tòa án thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng. Tòa án làm căn cứ xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu, phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.

3. Đặc điểm của chứng cứ

Chứng cứ luôn được coi là một trong những yếu tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định, là cơ sở để Tòa án đi đến kết luận cuối cùng nên chứng cứ phải luôn đảm bảo 3 yếu tố: tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp để tìm ra sự thật khách quan. Đặc biệt:

- Tính khách quan: chứng cứ không phụ thuộc vào nhận thức chủ quan của con người - không thể tạo ra chứng cứ. Vì vậy, con người chỉ có thể nhận thức, thu thập, nghiên cứu và đánh giá nó chứ không thể tạo ra chứng cứ theo đúng nghĩa và bản chất của chứng cứ. Mọi hành vi sửa chữa, thay đổi hay tạo ra cái gọi là chứng cứ, thì đó chắc chắn không phải là chứng cứ của vụ án, mà là chứng cứ giả. Vì vậy, khi thu thập, tìm kiếm chứng cứ cần đặc biệt chú ý đến tính khách quan của chứng cứ, xem xét nội dung tài liệu có xác thực hay không, nó xuất hiện vào thời điểm nào? ai viết, ai quản lý, lưu giữ hay phát hiện ra; Chứng cứ có phản ánh đúng bản chất sự việc hay không? để xem xét, để đánh giá nó như nó là.

- Tính liên quan: chứng cứ phải liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vụ việc. Mối liên hệ này có thể trực tiếp, rất dễ nhận biết, nó giúp chúng ta nhận ra ngay bản chất, sự thật khách quan của vụ việc dân sự này.
- Tính hợp pháp: chứng cứ phải được thu thập, bảo quản, kiểm tra, đánh giá, nghiên cứu theo trình tự và cách thức do pháp luật quy định. Chẳng hạn, chứng cứ phải từ một trong các nguồn do BLTTDS quy định, phải giao nộp trong thời hạn quy định...

4. Quy định về xem xét, giám định tại chỗ trong tố tụng dân sự

Thẩm định liên quan đến việc kiểm tra, đánh giá và đưa ra kết luận pháp lý bằng văn bản về một vấn đề.
Là biện pháp điều tra được Tòa án áp dụng phổ biến trong quá trình xem xét, thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án dân sự. Trước khi Bộ luật tố tụng dân sự 2004 và Bộ luật tố tụng dân sự 2015 ra đời, do Pháp lệnh tố tụng dân sự năm 1989 quy định chưa chặt chẽ nên trên thực tế trong quá trình xem xét và giải quyết tại chỗ, có trường hợp Thẩm phán không thông báo cho địa phương. cơ quan chức năng, không yêu cầu các bên liên quan đến chứng kiến ​​việc khám nghiệm; thậm chí không ghi biên bản mà chỉ thấy phần nhận định trong bản án là “thông qua kiểm tra tại chỗ…” khiến cho việc kiểm tra, đánh giá tại chỗ của Tòa án trở nên kém hiệu quả hoặc vô giá trị. xử lý hợp pháp. Để việc khám nghiệm, giám định tại chỗ được khách quan, đầy đủ và có giá trị pháp lý cao, Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành quy định tại Điều 101 như sau:

"Đầu tiên. Theo yêu cầu của đương sự hoặc xét thấy cần thiết, Thẩm phán tiến hành xem xét, giám định tại chỗ trước sự chứng kiến ​​của đại diện Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc Công an cấp xã, huyện, thị trấn. hay cơ quan. , tổ chức nơi có đối tượng được xem xét, giám định phải thông báo trước việc xem xét, giám định tại chỗ để các bên có liên quan biết và chứng kiến ​​việc xem xét, giám định.
2. Việc xem xét, đánh giá tại chỗ phải được lập thành văn bản. Biên bản phải thể hiện rõ kết quả khám nghiệm, giám định, mô tả rõ hiện trường, có chữ ký của người giám định, người giám định và chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên liên quan nếu họ có mặt, của đại diện hội đồng phổ biến. hoặc Công an thành phố, huyện, thị xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi đối tượng được xem xét, giám định và người khác được mời tham gia xem xét, giám định. Sau khi lập biên bản, người giám định, giám định phải yêu cầu đại diện Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc Công an xã, huyện, xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi phát hiện đối tượng giám định ký tên và niêm phong. để xác nhận.

3. Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở việc khám nghiệm, giám định tại chỗ.
4. Thẩm phán có quyền yêu cầu Uỷ ban nhân dân cấp xã, Công an cấp xã, huyện, huyện nơi đối tượng được khám, giám định tại chỗ can thiệp trong trường hợp có hành vi cản trở việc khám, giám định. đánh giá. tại chỗ."

Với thủ tục quy định tại khoản 2 Điều 97 và quy định tại điều 101 Bộ luật tố tụng dân sự đang có hiệu lực, có thể hiểu rằng việc xem xét, giám định tại chỗ có thể được tiến hành theo yêu cầu của đương sự hoặc bởi tòa án tiếp nhận. Kiểm tra, giám định tại chỗ khi nhận thấy

Việc ra quyết định tại chỗ vừa có cách nhìn, cách tiếp cận toàn diện, tổng thể về sự việc cần xem xét, vừa để xem xét lại chứng cứ vụ án, vừa để có nhận thức chính xác hơn, nhằm đưa ra các quyết định rõ ràng, minh bạch. Đặc biệt, trong các vụ án tranh chấp nhà đất mà Tòa án phải xác định đối tượng cho các bên thì việc xem xét, đánh giá tại chỗ để xác định việc phân chia cho phù hợp, hợp lý là vô cùng cần thiết. Khi xem xét thẩm định tại chỗ cần lưu ý, phải mô tả đúng tính chất, nội dung của sự vật, vẽ sơ đồ theo đúng hình dáng, hiện trạng của vật tranh chấp, thể hiện các kích thước trong sơ đồ (ví dụ: phòng nhỏ đương sự khai là bếp, xem xét không có dấu hiệu là bếp mà có dấu hiệu là phòng ngủ thì mô tả các dấu hiệu đó, chứ không ghi theo lồi khai của đương sự). Khi xem nhà đất cần hỏi cán bộ địa chính xã, phường về các vấn để liên quan, sau đó, nếu cần đối chiếu vối sổ địa chính, xem bản đồ, đốì chiếu số lô, diện tích của lô đất với lời khai của đương sự và các tài liệu mà đương sự đã xuất trình nhằm phát hiện các điểm vênh để làm cho rõ, đỡ tốn công đi lại.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy, nếu vật tranh chấp là nhà đất khi đã xuốhg xem xét tại chỗ rất nên kiểm tra diện tích thực tế bằng việc đo đạc (có thể Thẩm phán và những người tham gia xem xét tại chỗ tự đo hoặc cần sử dụng các nhà chuyên môn để đo là tùy tình hình cụ thể từng vụ mà quyết định) để đốì chiếu vói diện tích đương sự khai hoặc diện tích được ghi trong sổ sách. Nếu số liệu khác nhau yêu cầu chính quyền địa phương, đương sự cho biết lý do. Chỉ khi có cách lý giải hợp lý thì việc xét xử mối có căn cứ vững chắc (nếu diện tích do lấn chiếm phảkitìm hiểu xem ai lấn chiếm, thời gian lấn chiếm, sử dụng, quan điểm của chính quyền địa phương về vấn đề đó, thì mới có cơ sở áp dụng các quy định pháp luật tương ứng). Ngay cả khi thẩm phán hay thư ký lập biên bản, vẽ sơ đồ cũng phải chú ý đến cách thể hiện phải đạt yêu cầu để người không đi giám định tại chỗ có khi còn hình dung đúng sự việc và thực tế (đã có trường hợp việc mô tả, vẽ sơ đồ... chỉ người ghi, vẽ sơ đồ hiểu, người khác thì không. Thậm chí, do mô tả, vẽ sơ đồ không chính xác nên lâu sau mới là người người sẽ sửa lại trên trang web. Chỗ này cũng hiểu sai sơ đồ và bản vẽ mà tôi đã trình bày trước đây). Vì vậy, hãy cố gắng càng cụ thể càng tốt, tránh khái quát hóa. Khi xuống cơ sở phát hiện những tình tiết, tài liệu, chứng cứ mới liên quan đến vụ án trước Toà án thì phải lập biên bản thu thập và yêu cầu đương sự, người biết sự việc làm rõ ngay (ví dụ: không , đương sự tự khai và hồ sơ không có tài liệu nào thể hiện trên đất có công trình, cây cối... nhưng khi hạ mắt xuống thì có công trình, cây cối...)

Về giám định tại chỗ và thủ tục giám định: theo quy định tại Điều 85 Điều 3 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì trong quá trình giám định tại chỗ, Thẩm phán phải ra quyết định. Quyết định này cần được thông báo cho các bên liên quan để họ được biết và chứng kiến ​​việc xem xét, đánh giá tại chỗ. Quyết định giám định tại chỗ còn phải được gửi cho Uỷ ban nhân dân cấp huyện, quận hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng được giám định. Đồng thời, Tòa án cũng phải có văn bản yêu cầu Ủy ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức cử người đại diện tham gia việc xem xét, thẩm định tại chỗ theo ngày, giờ ghi trong quyết định. Việc xem xét, thẩm định tại chỗ . kiểm tra, đánh giá. . Trong trường hợp không có mặt đại diện Uỷ ban nhân dân hoặc đại diện cơ quan, tổ chức thì việc xem xét, giám định tại chỗ bị hoãn.

Trong trường hợp có người cản trở việc xem xét, thẩm định tại chỗ, thẩm phán sẽ chỉ đạo đại diện Ủy ban nhân dân, cơ quan, tổ chức thực hiện các biện pháp can thiệp kèm theo và nếu cần thiết có thể báo cơ quan công an. bảo vệ, trợ giúp (xem Thông tư số 15/2003/TT-BCA (V19) ngày 10 tháng 3 năm 2003 của Bộ Công an hướng dẫn hoạt động trợ giúp pháp lý của cơ quan bảo vệ pháp luật. Cơ quan giám sát bảo vệ trợ giúp pháp lý thuộc Bộ Công an) . Trong quá trình kiểm tra, đánh giá tại chỗ, Thẩm phán có thể tự mình viết biên bản hoặc nhờ thư ký ghi biên bản. Trường hợp có người cản trở việc xem xét, giám định tại chỗ thì Thẩm phán phải lập biên bản và lưu vào hồ sơ.

5. Vai trò của khám nghiệm, giám định tại chỗ trong tố tụng dân sự

Xem xét, giám định tại chỗ là biện pháp trong quá trình tố tụng nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ từ phía Tòa án, chứng minh quyền khởi kiện của nguyên đơn.
Đây là biện pháp thu thập chứng cứ quan trọng, là cơ sở để giải quyết vụ việc dân sự được chính xác, đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Trường hợp đương sự có đơn yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét, giám định mà việc xem xét, giám định tại chỗ có liên quan đến việc xét xử thì Thẩm phán có thẩm quyền quyết định vụ án đó phải thực hiện việc xem xét, giám định này theo yêu cầu. của đương sự.
Khi không thể tự mình thu thập chứng cứ, tài liệu trong vụ án thì các bên liên quan (gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án) có quyền yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ. , tài liệu bảo đảm cho việc giải quyết vụ án. Khám nghiệm, giám định tại chỗ là một trong những biện pháp Tòa án áp dụng để thu thập chứng cứ, tài liệu.

Cụ thể hơn, trên cơ sở (khoản 1 Điều 101 BLDS 2015), theo yêu cầu của đương sự hoặc xét thấy cần thiết, Thẩm phán tiến hành xem xét, giám định tại chỗ trước sự chứng kiến ​​của đương sự. đại diện Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc Công an xã, huyện, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng được xem xét, giám định và phải báo trước để bên bị hại biết, chứng kiến. việc kiểm tra, đánh giá tại chỗ.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo