Bàn về sự kiện bất khả kháng và nguyên tắc suy đoán tại Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015
1. Luật bất khả kháng của Việt Nam
Khoản 1 Điều 156 BLDS 2015 (2015) quy định: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan, không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và cho phép. Ngoài BLDS 2015, định nghĩa về sự kiện bất khả kháng còn được quy định rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau. Một số văn bản pháp luật đưa ra ví dụ về các trường hợp cụ thể được coi là bất khả kháng, bao gồm các sự kiện do tự nhiên như thiên tai, hỏa hoạn, cháy nổ, lũ lụt, sóng thần, dịch bệnh, động đất hoặc các sự kiện có nguồn gốc từ con người như bạo loạn, nổi loạn, thù địch, biểu tình, phá hoại, cấm vận. , bao vây, phong tỏa và tất cả các hành động chiến tranh hoặc thù địch công khai. Các quy định này về cơ bản phù hợp với quy định của BLDS 2015.
Hậu quả pháp lý trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng được quy định cụ thể tại Khoản 2 Điều 351 BLDS 2015, cụ thể: “Nếu do sự kiện bất khả kháng mà bên nợ không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình thì không phải trách nhiệm dân sự. , trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
1.1. Các yếu tố cấu thành của trường hợp bất khả kháng
Theo quy định tại khoản 1 Điều 156 BLDS 2015, sự kiện được coi là trường hợp bất khả kháng nếu: (i) xảy ra một cách khách quan, (ii) không thể thấy trước được và (iii) không thể khắc phục được. các biện pháp có thẩm quyền đã được thực hiện. Ngoài ra, căn cứ quy định về hậu quả pháp lý trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng được quy định tại khoản 2 Điều 351 BLDS 2015 thì hậu quả của việc bên bị vi phạm không thực hiện nghĩa vụ theo quy định trong hợp đồng nên cũng được tính đến khi xác định liệu một sự kiện có được coi là bất khả kháng đối với một trường hợp cụ thể hay không. Như phân tích dưới đây, trong trường hợp của Covid-19, hậu quả này có lẽ đóng vai trò quan trọng nhất trong việc xác định Covid-19 có đủ điều kiện là sự kiện bất khả kháng hay không?
Sự kiện xảy ra một cách khách quan
BLDS 2015 không quy định về tiêu chí xác định sự kiện được coi là xảy ra một cách khách quan. Tuy nhiên, có thể suy luận một cách hợp lý rằng một sự kiện xảy ra một cách khách quan khi nó xảy ra trái với ý muốn của các bên. Nói cách khác, sự kiện đó không do các bên tạo ra hoặc phát sinh do lỗi chủ quan của các bên. Có thể thấy, khi xác định yếu tố khách quan, điều quan trọng là phải xác định bên vi phạm có lỗi hay cố ý gây ra sự kiện bất khả kháng. Nói rộng hơn, nếu sự kiện bất khả kháng xảy ra do một bên trong hợp đồng thì bên này khó có thể viện dẫn hậu quả phát sinh từ hành vi của mình để coi đó là sự kiện bất khả kháng. .
Sự kiện không lường trước xảy ra
Tương tự như việc xác định sự kiện được coi là xảy ra một cách khách quan, BLDS 2015 không đưa ra tiêu chí xác định sự kiện được coi là xảy ra không thể lường trước được. Hiểu một cách đơn giản, sự kiện là sự kiện không thể lường trước được khi nó xảy ra ngoài sự mong đợi của các bên. Vấn đề là thời điểm hợp lý mà các bên phải lường trước được sự kiện bất khả kháng có thể xảy ra trong khi BLDS 2015 không có quy định nào về vấn đề này. Có thể thấy, các cam kết và nghĩa vụ trong hợp đồng được các bên đưa ra phụ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện và các yếu tố khách quan tại thời điểm giao kết hợp đồng. Do đó, có thể suy luận một cách hợp lý rằng sự kiện bất khả kháng phải là sự kiện mà các bên không thể lường trước được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, nếu có sự kiện không thấy trước được vào thời điểm giao kết hợp đồng nhưng có thể thấy trước được trong quá trình thực hiện hợp đồng thì sự kiện này có còn được coi là trường hợp bất khả kháng không? Chúng tôi cho rằng, nếu một sự kiện có thể thấy trước sau thời điểm giao kết hợp đồng thì không nên coi đó là trường hợp bất khả kháng nhằm mục đích miễn trừ trách nhiệm dân sự đối với hành vi vi phạm có thể xảy ra trong tương lai. Hơn nữa, một vấn đề được Bộ luật Dân sự 2015 đặt ra chưa thực sự rõ ràng là tiêu chuẩn để xem xét khả năng các bên có thể lường trước được sự kiện khách quan có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng. Tiêu chuẩn quốc tế này có thể được áp dụng tại thời điểm ký kết hợp đồng hoặc trong quá trình thực hiện hợp đồng. Mặc dù không hoàn toàn rõ ràng, nhưng có thể hợp lý hơn khi áp dụng thử nghiệm này tùy thuộc vào việc liệu một người bình thường được đặt trong hoàn cảnh tương tự có thể thấy trước sự xuất hiện của một sự kiện như vậy hay không. Nếu xét trên quan điểm một người bình thường có thể thấy trước một sự kiện sẽ xảy ra thì không nên coi sự kiện này là sự kiện bất khả kháng.
Sự xuất hiện của sự kiện không thể được khắc phục mặc dù đã thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết và được phép
Ngoài điều kiện quy định sự kiện bất khả kháng phải là sự kiện khách quan, không thể lường trước được, đồng thời BLDS 2015 quy định sự kiện bất khả kháng phải là sự kiện không thể khắc phục được mặc dù bên mắc nợ đã cố gắng hết sức để thực hiện. tất cả các biện pháp cần thiết. và các biện pháp thực tế để khắc phục ảnh hưởng của sự kiện đối với việc thực hiện hợp đồng. Điều kiện này cũng phù hợp với nguyên tắc thiện chí, trung thực và nhằm bảo đảm việc thực hiện hợp đồng của các bên. Do đó, bên mắc nợ phải áp dụng mọi biện pháp để thực hiện các cam kết, nghĩa vụ đã quy định trong hợp đồng và không thể trông chờ vào sự xuất hiện trở ngại khách quan để làm căn cứ miễn trừ trách nhiệm thực hiện hợp đồng.
Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định tiêu chí đánh giá nỗ lực của một bên có cần thiết và nằm trong khả năng của bên đó hay không hay có phải tính đến yếu tố kinh tế khi áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả hay không. Điều này có lẽ có ý nghĩa từ quan điểm của các biện pháp khắc phục mà một người bình thường trong tình huống tương tự có thể áp dụng. Tuy nhiên, trong bất kỳ trường hợp nào, sẽ không hợp lý nếu cho phép một bên, vì lý do thuần túy kinh tế, không thực hiện quyền truy đòi trong trường hợp vi phạm. Các sự kiện dẫn đến việc bên bị ảnh hưởng không thực hiện đúng nghĩa vụ theo hợp đồng
BLDS 2015 không quy định cụ thể về mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện bất khả kháng và việc thực hiện hợp đồng. Có thể ngầm hiểu rằng sự kiện bất khả kháng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc bên bị ảnh hưởng không thể thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Với cách tiếp cận như vậy, việc thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng trên cơ sở sự kiện bất khả kháng chỉ có thể được chấp nhận nếu sự kiện bất khả kháng trên thực tế là nguyên nhân trực tiếp khiến bên có quyền cản trở việc thực hiện đúng nghĩa vụ. Khó khăn về tài chính do hoạt động kinh doanh bị đình trệ, sa sút dẫn đến việc một bên không có khả năng thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng là nguyên nhân gián tiếp và không được coi là nguyên nhân dẫn đến việc không thực hiện nghĩa vụ. Nếu xét đến sự kiện là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến việc bên bị ảnh hưởng không thể thực hiện được nghĩa vụ của mình thì sự kiện bất khả kháng có thể được giải thích rất rộng, dẫn đến việc bên bị ảnh hưởng dễ dàng lợi dụng để trốn tránh trách nhiệm của mình. .
2. Hậu quả pháp lý của sự kiện bất khả kháng
Như đã đề cập ở trên, ngoại trừ trách nhiệm sửa chữa thiệt hại, BLDS 2015 không quy định cụ thể bên vi phạm không phải chịu những loại trách nhiệm nào. Trong khi đó, Luật Thương mại 2005 (LTM 2005) quy định rộng hơn về vấn đề này và miễn trách nhiệm cho bên vi phạm đối với hầu hết các biện pháp khắc phục, bao gồm bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm, đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng và đơn phương chấm dứt hợp đồng. của hợp đồng. .
Căn cứ vào các quy định của luật hợp đồng và thông lệ thị trường, trong trường hợp vi phạm hợp đồng, bên bị thiệt hại có thể yêu cầu nhiều biện pháp khắc phục trách nhiệm tài chính và trách nhiệm phi tài chính. Các biện pháp khắc phục trách nhiệm tài chính bao gồm: (i) thiệt hại, (ii) tiền phạt, (iii) tiền lãi không thanh toán, (iv) trả trước, (v) khiếu nại, mọi khoản thanh toán quá hạn phải đến hạn và được thanh toán, (vi) bù trừ nghĩa vụ và ( vii) khiếu nại đối với các khoản thanh toán khác. Các biện pháp khắc phục phi tiền tệ bao gồm: (i) tiếp tục thực hiện, (ii) đình chỉ thực hiện hợp đồng, (iii) hủy bỏ hợp đồng và (iv) đơn phương chấm dứt hợp đồng. Do BLDS 2015 và LTM 2005 liệt kê cụ thể một số biện pháp khắc phục được miễn trừ trường hợp bất khả kháng như bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, chấm dứt hợp đồng và đơn phương chấm dứt hợp đồng nên có khung pháp lý rõ ràng. cơ sở để từ bỏ các biện pháp khắc phục này. Tuy nhiên, việc miễn áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả không được liệt kê cụ thể trong BLDS 2015 và LTM 2005 là chưa rõ ràng. Theo chúng tôi, nên hiểu rằng nếu xảy ra sự kiện bất khả kháng thì về lý thuyết, các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận miễn trừ mọi trách nhiệm với tất cả các biện pháp khắc phục do luật bất khả kháng của HỢP ĐỒNG quy định. Vì vậy, nếu các bên muốn miễn trừ trách nhiệm khắc phục hậu quả khác (ngoài các chế tài được liệt kê cụ thể trong BLDS 2015 và LTM 2005) thì các bên phải ghi rõ vấn đề này trong hợp đồng.
Nội dung bài viết:
Bình luận