So sánh bảo lãnh ngân hàng và bảo lãnh dân sự
Bảo lãnh là biện pháp bảo lãnh được sử dụng phổ biến trong thực tiễn cấp tín dụng. Khung pháp lý chung về bảo lãnh được nêu trong Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015 (Bộ luật Dân sự). Pháp luật cụ thể cũng bổ sung các nguyên tắc cho khung pháp lý chung này.
Khoản 1 Điều 335 “Bộ luật dân sự” định nghĩa bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) hứa với chủ nợ (sau đây gọi là bên bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay mình. . Con nợ (sau đây gọi là chủ nợ), chủ nợ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng khoản nợ trong thời hạn.
Định nghĩa trên cho thấy bảo lãnh là mối quan hệ một chiều. Ngoại trừ bảo lãnh ngân hàng, bảo lãnh chung không phải trả thù lao nhưng Điều 337 Bộ luật Dân sự cho phép các bên tự do thỏa thuận về việc có trả thù lao hay không.
Định nghĩa cũng hàm ý rằng bên có quyền chỉ có thể yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có quyền nếu bên có quyền không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền, nghĩa vụ và vi phạm nghĩa vụ. Điều 342 khoản 1 BLDS cũng nhắc lại điểm này, nếu bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 339 “Bộ luật Dân sự” quy định chủ nợ không được yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện quyền chủ nợ trước thời hạn thực hiện quyền chủ nợ. Tổng hợp các quy định này, có thể thấy rằng bảo lãnh chỉ có thể được viện dẫn nếu: nghĩa vụ được bảo đảm phải đến hạn phải được thực hiện, bên bảo lãnh phải vi phạm nghĩa vụ này.
Khoản 2 Điều 335 BLDS quy định rõ, các bên có thể thỏa thuận nếu chủ nợ không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ nợ thay. Điều này có nghĩa là, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, nếu bên có quyền không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ khi khoản nợ được bảo lãnh đến hạn thì bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà không cần phải chứng minh cho người được bảo lãnh. Bảo lãnh về việc chủ nợ không thể thực hiện nghĩa vụ. Nếu công ty mẹ đứng ra bảo lãnh cho công ty con vay ngân hàng thì đương nhiên ngân hàng sẽ được lợi khi yêu cầu bảo lãnh, vì công ty mẹ thường có tiềm lực tài chính tốt hơn công ty con. Trong thực tiễn tín dụng, bảo lãnh thường được sử dụng bởi các công ty nhóm1.
Có thể thấy, biện pháp bảo lãnh trong Bộ luật Dân sự phát huy tác dụng rất lớn đối với bên được bảo lãnh. Đáng tiếc là văn bản pháp luật này vẫn còn thiếu nhiều điều khoản giúp bảo vệ lợi ích hợp pháp của bên bảo lãnh2.
Bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
Thực chất của bảo lãnh là hứa trả nợ bằng tín dụng của người bảo lãnh.
Khoản 3 Điều 336 BLDS quy định các bên có thể thỏa thuận áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Phổ biến nhất là cầm cố, thế chấp tài sản của bên bảo lãnh để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Biện pháp này cho phép người bảo lãnh sử dụng một số tài sản của người bảo lãnh để thanh toán cho các biện pháp bảo đảm bổ sung.
Có thể tóm tắt những điểm khác biệt chính giữa tài sản cầm cố, thế chấp của bên thứ ba3 và nghĩa vụ bảo lãnh bằng cầm cố, thế chấp như sau: (Bảng 1)
Việc cùng tồn tại hai loại biện pháp tự vệ nêu trên sẽ giúp các bên có nhiều lựa chọn hơn về mức độ ràng buộc nghĩa vụ mà mình đảm nhận. Đây cũng là cách làm phổ biến ở các nước có hệ thống pháp luật tiên tiến như Anh, Pháp, Australia.
Khoản đầu tiên Điều 336 Bộ luật Dân sự quy định bên bảo lãnh có thể thế chấp một phần hoặc toàn bộ khoản nợ cho chủ nợ với tư cách bảo lãnh. Do đó, khoản vay có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ. Về vấn đề này, văn bản bảo lãnh cần nêu rõ phạm vi bảo lãnh, bao gồm cả việc sửa đổi, bổ sung các hợp đồng vay có liên quan.
Khoản 2 Điều 336 “Bộ luật Dân sự” quy định rõ nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm tiền lãi, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, lãi chậm nộp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Do đó, lãi chậm trả cũng có thể thuộc phạm vi nghĩa vụ bảo đảm. Quy định này làm cho việc bảo lãnh phù hợp hơn với các quy định hiện hành của thực tiễn cấp tín dụng và hoạt động cấp tín dụng.
Còn liên quan đến phạm vi bảo lãnh, theo quy định tại Điều 336 khoản 4 BLDS, nếu khoản nợ được bảo lãnh là khoản nợ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh không bao gồm khoản nợ phát sinh trong tương lai. . Khi [ ] pháp nhân của người bảo lãnh chấm dứt tồn tại. Điều này có nghĩa là ngân hàng sẽ mất các khoản bảo lãnh cho vay được thành lập sau khi pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại (công ty bảo lãnh trong trường hợp giải thể, phá sản hoặc trong một số trường hợp là tổ chức lại).
Ngoài ra, khoản 1 Điều 341 “Bộ luật Dân sự” quy định bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, nếu chủ nợ miễn thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên bảo lãnh không được thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Nghĩa vụ của bên bảo lãnh do thoả thuận hoặc pháp luật quy định trừ trường hợp có quy định khác.
Điều 343 BLDS quy định bốn trường hợp chấm dứt bảo lãnh, đó là: (1) nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt; (ii) bảo lãnh bị hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp bảo lãnh khác; (iii) bên bảo lãnh đã hoàn thành nghĩa vụ bảo lãnh; (iv) theo thỏa thuận chung.
Căn cứ chấm dứt bảo lãnh khi nghĩa vụ được bảo đảm chấm dứt được hiểu là xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của quan hệ bảo lãnh, đó là nghĩa vụ được bảo đảm phải phụ thuộc vào nghĩa vụ được bảo đảm. Nghĩa vụ bảo lãnh có thể chấm dứt vì nhiều lý do khác nhau như bên có quyền không thực hiện nghĩa vụ, bên có quyền từ bỏ việc bên có quyền thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với chủ nợ, hợp đồng bị hủy bỏ làm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh.
Đối với trường hợp giải chấp bảo lãnh thì các bên có thể thỏa thuận trong văn bản bảo lãnh về việc bảo lãnh sẽ chấm dứt nếu bên cho vay gia hạn thời hạn thực hiện cho bên cho vay hoặc nếu bên cho vay và bên bảo lãnh bổ sung, thay đổi các điều khoản khác của hợp đồng. . Khi không có sự đồng ý của bên bảo lãnh thì phát sinh nghĩa vụ được bảo lãnh. Cần lưu ý rằng loại thỏa thuận này khá bất lợi cho người bảo lãnh.
Tương tự như vậy, các bên có thể thỏa thuận rằng việc chủ nợ vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào theo bảo lãnh sẽ dẫn đến việc chấm dứt bảo lãnh. Nhưng không khó để thấy rằng trong bối cảnh cấp vốn doanh nghiệp, rất hiếm khi người cho vay (với tư cách là người bảo lãnh) cam kết thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người bảo lãnh. Tức là văn bản bảo lãnh thường là cam kết một chiều của bên bảo lãnh.
Một bất cập là Điều 343 Bộ luật Dân sự không quy định về việc chấm dứt bảo lãnh một cách rõ ràng, tức là hết thời hạn có hiệu lực của bảo lãnh. Tất nhiên, hai bên hoàn toàn có thể thỏa thuận chấm dứt bảo lãnh vào một thời điểm nhất định. Trong trường hợp như vậy, rõ ràng là người bảo lãnh sẽ không chịu trách nhiệm đối với bất kỳ khoản thanh toán khoản vay nào được người cho vay thực hiện hoặc hứa sẽ trả cho người bảo lãnh sau đó. Nhưng câu hỏi đặt ra là người bảo lãnh có cần phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với các khoản tiền đã được người bảo lãnh cấp trước ngày hết hạn bảo lãnh nhưng đến ngày đó chưa được hoàn trả hay không? Không có câu trả lời rõ ràng trong các quy định hiện hành. Văn bản bảo lãnh có thể quy định tiếp tục áp dụng đối với việc hoàn trả các khoản tiền đã chi hoặc cầm cố trước thời hạn bảo lãnh nhưng hết thời hạn bảo lãnh.
Quyền truy đòi của người bảo lãnh
Điều 340 “Bộ luật Dân sự” quy định: “Bên bảo lãnh có quyền yêu cầu chủ nợ thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Đây là quyền yêu cầu của bên bảo lãnh và nên hiểu rằng:
- Về nguyên tắc, bên bảo lãnh chỉ được yêu cầu chủ nợ trả lại số tiền đã trả thay cho mình sau khi đã thực hiện xong nghĩa vụ bảo lãnh. Nói cách khác, trong trường hợp bảo lãnh khoản vay, người bảo lãnh phải trả cho người cho vay số tiền được bảo lãnh trước khi người bảo lãnh có thể yêu cầu chủ nợ thanh toán.
- Ngay cả khi người bảo lãnh chỉ trả một phần tiền đặt cọc, người bảo lãnh có thể yêu cầu người bảo lãnh hoàn lại tiền. Điều này có nghĩa là bên bảo lãnh có thể thực hiện quyền yêu cầu bồi thường cho đến khi chưa thanh toán đủ số tiền được bảo lãnh ghi trong văn bản bảo lãnh.
- Người bảo lãnh và người được bảo lãnh có thể thoả thuận về việc người bảo lãnh miễn yêu cầu bảo lãnh.
- Bên bảo lãnh chỉ hoàn trả số tiền mà bên bảo lãnh đã thanh toán cho bên bảo lãnh, không bao gồm các chi phí mà bên bảo lãnh phải chịu do việc bảo lãnh (đặc biệt là án phí). Giấy tờ bảo hành.
Cần lưu ý rằng Điều 340 BLDS không quy định cụ thể bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh hoàn trả hay không nếu bên bảo lãnh đưa ra cam kết bảo lãnh mà bên bảo lãnh không yêu cầu. Loại tình huống này thường gặp trong thực tế, chẳng hạn như công ty mẹ bảo lãnh khoản vay cho công ty con tại ngân hàng, nhưng không muốn công ty con biết, sợ công ty con sẽ dựa dẫm vào công ty. nghĩa vụ trả nợ của mình đối với ngân hàng.
Về vấn đề này, chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm của pháp luật Anh, chỉ khi người bảo lãnh hứa thực hiện nghĩa vụ của mình theo yêu cầu rõ ràng hoặc ngụ ý của chủ nợ thì người bảo lãnh mới có quyền đòi lại tiền từ chủ nợ. Người bảo lãnh 4.
Một câu hỏi khác là yêu cầu của nguyên đơn xảy ra khi nào? Các quy định về biện pháp bảo vệ trong BLDS chưa đề cập đến vấn đề này. Trường hợp áp dụng nguyên tắc chung về thời hạn thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 278 BLDS thì bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh có thể thỏa thuận về thời hạn bên có quyền thực hiện nghĩa vụ trả nợ. .Tuy nhiên, nếu không có thỏa thuận hoặc các bên không thỏa thuận được thời hạn thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì bên bảo lãnh thực hiện quyền yêu cầu như thế nào? Có thể áp dụng tinh thần của Điều 278 khoản 3 “Bộ luật Dân sự” quy định trong trường hợp không xác định được thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì các bên có quyền [ ] yêu cầu thực hiện nghĩa vụ vào thời điểm nào không? Bên kia phải được thông báo trong một thời hạn hợp lý, tức là bên bảo lãnh có quyền yêu cầu chủ nợ thực hiện nghĩa vụ của mình bằng cách báo trước cho chủ nợ một thời gian hợp lý hay không?
Có lẽ cách tiếp cận trên là không hợp lý vì: (i) không có biện pháp bảo vệ hữu hiệu cho bên bảo lãnh; (ii) khó xác định thời hạn báo trước nào là hợp lý, nhất là khi việc chủ nợ vi phạm nghĩa vụ đối với người thụ hưởng dẫn đến (iii) Không phù hợp với thông lệ bảo lãnh5 quốc tế, đó là quyền truy đòi của bên bảo lãnh về nguyên tắc phát sinh khi nghĩa vụ bảo lãnh được thực hiện.
Cần lưu ý rằng, về nguyên tắc, nếu bên bảo lãnh trả quá hạn cho bên bảo lãnh thì bên bảo lãnh phải chịu phí chậm trả (Điều 357 BLDS).
Quyền thế quyền của người bảo lãnh
Trên thực tế, trong hầu hết các trường hợp, ngoài biện pháp bảo đảm, bên bảo đảm còn có nhiều biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm cho nghĩa vụ được bảo lãnh. Pháp luật của nhiều nước như Anh, Pháp, Úc đều ghi nhận quyền được hưởng biện pháp bảo đảm mà bên bảo lãnh đang nắm giữ đối với nghĩa vụ được bảo lãnh sau khi bên bảo lãnh thanh toán. Thanh toán toàn bộ khoản nợ được bảo đảm hoặc một phần khoản nợ mà nó đảm bảo (quyền thế quyền)6. Cách tiếp cận này được thiết kế để bảo vệ người bảo lãnh: nghĩa vụ được bảo đảm được coi là vẫn có hiệu lực trên danh nghĩa và tương tự như vậy, bảo lãnh được coi là tiếp tục vì lợi ích của người bảo lãnh. Ngay cả khi người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ này, quyền lợi của người bảo lãnh 7. Người bảo lãnh có quyền này ngay cả khi việc bảo lãnh không được thực hiện theo yêu cầu của người bảo lãnh. Tuy nhiên, bên bảo lãnh phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ bảo lãnh trước khi thực hiện quyền này.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, BLDS hiện hành chỉ ghi nhận quyền truy đòi của bên bảo lãnh như đã phân tích ở trên, chưa đề cập đến việc bên bảo lãnh thế quyền bảo đảm cho nghĩa vụ được bảo lãnh của bên bảo lãnh.
Trong thực tiễn xét xử, đối với quan hệ bảo lãnh thông thường (cá nhân bảo lãnh tài sản vay cho người khác), một số Toà án ghi nhận bên bảo lãnh được hưởng các biện pháp bảo lãnh mà bên bảo lãnh đã được hưởng trước đó. quyền được hưởng 8. Để bảo vệ người bảo lãnh tốt hơn, pháp luật cần ghi nhận càng sớm càng tốt quyền này của người bảo lãnh.
Người bảo lãnh đã chết
Khoản 4 Điều 336 BLDS quy định rõ, nếu khoản nợ được bảo lãnh là khoản nợ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh không bao gồm khoản nợ phát sinh sau khi bên bảo lãnh chết. Vì vậy, nếu phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả khoản vay hình thành trong tương lai sau khi xác lập bảo lãnh thì ngân hàng được bảo lãnh không có quyền truy đòi nghĩa vụ bảo lãnh đối với người thừa kế của bên bảo lãnh đối với khoản vay.
Rất tiếc, Bộ luật Dân sự không quy định về việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với khoản vay phát sinh trước khi người bảo lãnh qua đời.
Khi áp dụng Điều 22949 BLDS Pháp, Tòa án tối cao Pháp đã đưa ra giải pháp khá rõ ràng: nghĩa vụ bảo lãnh (khoản nợ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết) chấm dứt và không được chuyển giao cho người thừa kế của người bảo lãnh. Chỉ nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ phát sinh trước khi người bảo lãnh chết mới được chuyển giao cho những người thừa kế này10.
Tuy nhiên, đối chiếu với Điều 336 khoản 4 và Điều 343, 615 Bộ luật Dân sự thì có vẻ như những người thừa kế của bên bảo lãnh vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với bên bảo lãnh. Khoản vay phát sinh trước khi bên bảo lãnh chết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác11.
Người bảo lãnh là doanh nghiệp đang tiến hành thủ tục phá sản
Khoản 2 Điều 55 Luật Phá sản số 51/2014/QH13 (“Luật Phá sản”) quy định, trong trường hợp bên bảo đảm mất khả năng thanh toán thì khoản tiền ký quỹ được xử lý như sau:
a) Trường hợp phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Nếu bên bảo lãnh không thanh toán đủ trong phạm vi bảo lãnh thì bên bảo lãnh có quyền yêu cầu chủ nợ thanh toán phần còn lại;
b) Trường hợp nghĩa vụ bảo lãnh chưa xảy ra thì bên cho vay phải thực hiện các biện pháp bảo đảm khác, trừ trường hợp giữa bên cho vay và bên được bảo lãnh có thỏa thuận khác.
Do đó, nếu bên bảo lãnh mất khả năng thanh toán thì bên bảo lãnh vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (được hiểu là nghĩa vụ được bảo đảm đến hạn) khi xảy ra sự cố bảo lãnh và chủ nợ chỉ nộp tiền đặt cọc bảo lãnh. Hoàn toàn nằm trong phạm vi bảo lãnh, nếu khoản nợ được bảo lãnh chưa đến hạn thanh toán thì chủ nợ phải thực hiện các biện pháp bảo đảm khác, trừ trường hợp giữa chủ nợ và bên được bảo lãnh có thoả thuận khác. Cần lưu ý rằng thời điểm xét xử bên bảo lãnh hay bên được bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh ở đây là khi bên bảo lãnh mất khả năng thanh toán, tức là khoản nợ khi nghĩa vụ trả nợ chưa được thực hiện (trừ nghĩa vụ bảo lãnh).
Nội dung bài viết:
Bình luận