Quy luật giá trị chính là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất, lưu thông hàng hóa. Bất kỳ đâu có hoạt động sản xuất, hoạt động trao đổi sản phẩm thì nơi đó sẽ có sự xuất hiện và luôn phát huy tác dụng của quy luật này. Vậy Quy luật giá trị trong sản xuất và lưu thông hàng hóa là gì? Hãy cùng ACC tìm hiểu thông qua bài viết dưới đây!
Quy luật giá trị trong sản xuất và lưu thông hàng hóa
1. Khái quát về quy luật giá trị
Mọi hoạt động cuả các chủ thể kinh tế trong sản xuất và lưu thông hàng hoá đều chịu sự tác động cuả quy luật này. Quy luật giá trị là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng kinh tế chu kì,phân hoá giàu nghèo,những cuộc cạnh tranh không lành mạnh. Ngoài ra quy luật này cũng buộc sản xuất, trao đổi hàng hóa phải căn cứ vào giá trị của nó, có nghĩa là hao phí lao động cần thiết. Trong hoạt động tạo ra hàng hóa, người thực hiện công việc này phải có sự hao phí sức lao động của cá nhân nhỏ hơn, bằng hao phí sức làm việc xã hội cần thiết thì mới có lợi thế nhiều hơn trong cạnh tranh.
2. Khái niệm của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản nhất cuả sản xuất và trao đổi hàng hoá
Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì chừng đó còn quy luật giá trị.
3. Nội dung và sự vận động của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hoá.Quy luật giá trị đòi hỏi việc sản xuất và lưu thông hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết,cụ thể là:
Trong sản xuất thì hao phí lao động cá biệt phải phù hợpvới hao phí lao động xã hội cần thiết.Vì trong nền sản xuất hàng hóa ,vấn đề đặc biệt quan trọng là hàng hóa sản xuất ra có bán được hay không.Để có thể bán được thì hao phí lao động để sản xuất ra hàng hóa cuả các chủ thể kinh doanh phải phù hợp với mức hao phí lao động xã hội có thể chấp nhận được .Mức hao phí càng thấp thì họ càng có khả năng phát triển kinh doanh,thu được nhiều lợi nhuận,ngược lại sẽ bị thua lỗ,phá sản…
Trong trao đổi hàng hoá cũng phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết,tức là tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá,hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau,nhưng có lương giá trị bằng nhau thì phải trao đổi ngang nhau.
Đòi hỏi trên của quy luật là khách quan ,đảm bảo sự công bằng ,hợp lí,bình đẳng giữa những người sản xuất hàng hoá.
Quy luật giá trị bắt buộc những người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo yêu cầu hay đòi hỏi cuả nó thông qua “ mệng lệnh” của giá cả thị trường.
Tuy nhiên trong thực tế do sự tác động cuả nhiều quy luật kinh tế ,nhất là quy luật cung cầu làm cho giá cả hàng hoá thường xuyên tách rời giá trị.
Nhưng sự tách rời đó chỉ xoay quanh giá trị,C.mác gọi đó là vẻ đẹp của quy luật giá trị.Trong vẻ đẹp này ,giá trị hàng hoá là trục ,giá cả thị trường lên xuống quanh trục đó.Đối với mỗi hàng hoá ,giá cả của nó có thể cao thấp khác nhau,nhưng khi xét trong một khoảng thời gian nhất định ,tổng giá cả phù hợp với tổng giá trị của nó.
Giá cả thị trường tự phát lên xuống xoay quanh giá trị là biểu hiện sự hoạt động của quy luật giá trị.
4. Mối quan hệ giữa giá cả, giá cả thị trường, giá cả độc quyền và giá trị hàng hoá.
Quy luật giá trị biểu hiện qua các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản thành quy luật giá cả sản xuất( giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh) và thành quy luật giá cả độc quyền ( giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền). Nó tiếp tục tồn tại và hoạt động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hộỉ các nước xã hội chủ nghĩa ở các nước và ở nước ta.
Ta xét mối quan hệ giữa giá cả , giá cả thị trường , giá cả độc quyền với giá trị hàng hoá :
Gía cả : là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá . Gía trị là cơ sở của giá cả
Khi quan hệ cung cầu cân bằng,giá cả hàng hoá cao hay thấp là ở giá trị của hàng hoá quyết định
Trong diều kiện sản xuất hàng hoá, giá cả hàng hoá tự phát lên xuống xoay quanh giá trị tuỳ theo quan hệ cung cầu, cạnh tranh và sức mua của đồng tiền.Sự hoạt động của quy luật giá trị biểu hiện ở sự lên xuống của giá cả trên thị trường.Tuy vậy, sự biến động của giá cả vẫn có cơ sở là giá trị , mặc dầu nó thường xuyên tách rời giá trị.Điều đó có thể hiểu theo hai mặt:
Không kể quan hệ cung cầu như thế nào, giá cả không tách rời giá trị xã hội
Nếu nghiên cứu sự vận động của giá cả trong một thời gian dài thì thấy tổng số giá cả bằng tổng só giá trị , vì bộ phận vượt quá giá trị sẽ bù vào bộ phận giá cả thấp hơn giá trị (giá cả ở đây là giá cả thị trường. Gía cả thị trường là giá cả sản xuấtgiữa người mua và người bán thoả thuận với nhau)
Giá cả sản xuất là hình thái biến tướng của giá trị , nó bằng chi phí sản xuất của hàng hoá cộng với lợi nhuận bình quân.
Trong giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh do hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân nên hàng hoá không bán theo giá trị mà bán theo giá cả sản xuất
Gía trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất không phải là phủ nhận quy luật giá trị mà chỉ là biểu hiện cụ thể của quy luật giá trị trong giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh.Qua hai điểm dưới đây sẽ thấy rõ điều đó:
Tuy giá cả sản xuất của hàng hoá thuộc nghành cá biệt có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị , nhưng tổng giá trị sản xuất của toàn bộ hàng hoá của tất cả các ngành trong toàn xã hội đều bằng tổng giá trị của nó.Tổng số lợi nhuận mà các nhà tư bản thu được cũng bằng tổng số giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra.
Giá cả sản xuất lệ thuộc trực tiếp vào giá trị . Gía trị hàng hoá giảm xuống, giá cả sản xuất giảm theo, giá trị hàng hoá tăng lên kéo theo giá cả sản xuất tăng lên.
Giá cả độc quyền :
Trong giai đoạn tư bản độc quyền, tổ chức độc quyền đã nâng giá cả hàng hoá lên trên giá cả sản xuất và giá trị . Gía cả độc quyền bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền. Lợi nhuận độc quyền vượt quá lợi nhuận bình quân.
Khi nói giá cả độc quyền thì thường hiểu là giá cả bán ra cao hơn giá cả sản xuất và giá trị, đồng thời cũng cần hiểu còn có giá cả thu mua rẻ mà tư bản độc quyền mua của người sản xuất nhỏ, tư bản vừa và nhỏ ngoài độc quyền.
Gía cả độc quyền không xoá bỏ giới hạn của giá trị hàng hoá , nghĩa là giá cả độc quyền không thể tăng thêm hoặc giảm bớt giá trị và tổng giá trị thặng dư do xã hội sản xuất ra; phần giá cả độc quyền vượt quá giá trị chính là phần giá trị mà những người bán ( công nhân, người sản xuất nhỏ , tư bản vừa và nhỏ…) mất đi.Nhìn vào phạm vi toàn xã hội , toàn bộ giá cả độc quyền cộng với giá cả không độc quyền về đại thể bằng toàn bộ giá trị .
5. Tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
Nền kinh tế nước ta đang từ sản xuất nhỏ đi lên san xuất lớn xã hội chủ nghĩa ,từ sản xuất tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa .Quy luật giá trị gắn liền nền sản xuất hàng hoá đó còn hoạt động trên một phạm vi khá rộng và trong một thời gian dài.Vai trò và phạm vi hoạt động của nó biển đổi từng thời kì cùng với sự chuyển biến của quan hệ sản xuất ,của lực lượng sản xuất với sự phát triển của phân công lao động xã hội.Vì vậy trong khi xác nhận vai trò chủ đạo quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa,chúng ta cần nhận thức đúng quy luật giá trị,tự giác vận dụng quy luật giá trị và những phạm trù kinh tế gắn liền với qui luật đó như tiền tệ, giá cả ,tín dụng ,tài chính ..để kích thích sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, thúc đẩy nền kinh tế nước ta tiến nhanh trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Theo văn kiện đại hội đảng IX”Đảngvà nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường , có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Với các đặc trưng của mô hình này như đã nói ở trên, các quy luật kinh tế được phép phát huy tác dụng của nó trong đó quy luật giá trị đóng vai trò là quy luật kinh tế căn bản chi phối toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế .
Như đã phân tích ở trên, quy luật giá trị có vai trò lớn trong nền sản xuất hàng hoá . Chúng ta đã vận dụng quy luật giá trị vào:
Trong lĩnh vực sản xuất
Nền sản xuất xã hội chủ nghĩa không chịu sự điều tiết của quy luật giá trị mà chịu sự chi phối của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội và quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân .Tuy nhiên ,quy luật giá trị không phải không có ảnh hưởng đến sản xuất.Những vật phẩm tiêu dùng cần thiết để bù vào sức lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất ,đều được sản xuất và tiêu thụ dưới hình thức hàng hoá và chịu sự tác động của quy luật giá trị .Trong những thành phần kinh tế khác nhau ,tác động của quy luật giá trị có những điểm không giống nhau.Nhà nước ta đã chủ động vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vưc sản xuất.Vì thế các xí nghiệp của chúng ta không thể và không được bỏ qua quy luật giá trị
Một nguyên tắc căn bản của kinh tế thị trường là trao đổi ngang giá tức là thực hiện sự trao đổi hàng hoá thông qua thị trường, sản phẩm phải trở thành hàng hoá.Nguyên tắc này đòi hỏi tuân thủ quy luật giá trị _ sản xuất và trao đỏi hàng hoá phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết. Cụ thể:
Xét ở tầm vi mô: Mỗi cá nhân khi sản xuát các sản phẩm đều cố gắng làm cho thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hội .
Xét ở tầm vĩ mô:Mỗi doanh nghiệp đều cố gắng nâng cao năng suất lao động , chất lượng sản phẩm, giảm thời gian lao động xã hội cần thiết.
Do vậy, nhà nước đua ra các chính sách để khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn.Mỗi doanh nghiệp phải cố gắng cải tiến may móc, mẫu mã, nâng cao tay nghề lao động. Nếu không, quy luật giá trị ở đây sẽ thực hiện vai trò đào thảicủa nó: loại bỏ những cái kém hiệu quả , kích thích các cá nhân,nghành, doanh nghiệp phát huy tính hiệu quả . Tất yếu điều đó dẫn tới sự phát triển của lực lượng sản xuất mà trong đó đội ngũ lao động có tay nghề chuyên môn ngày càng cao, công cụ lao động luôn luôn được cải tiến. Và cùng với nó, sự xã hội hoá, chuyên môn hoá lực lượng sản xuất cũng được phát triển.Đây là những vận dụng đúng đắn của nhà nước ta.
Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế.
Việc chuyển từ chế độ tầp trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì cùng với nó là việc loại bỏ cơ chế xin cho, cấp phát , bảo hộ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp phải tự hạch toán, không bị ràng buộc quá đángbởi các chỉ tiêu sản xuất mà nhà nước đưa ra và phải tự nghiên cứu để tìm ra thị trường phù hợp với các sản phẩm của mình; thực hiện sự phân đoạn thị trường để xác định tấn công vào đâu, bằng những sản phẩm gì.
Mặt khác, cùng với xu hướng công khai tài chính doanh nghiệp để giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán, thúc đẩy tiến trình gia nhập AFTA , WTO; mỗi cá nhân , mỗi doanh nghiệp đều phải nâng cao sức cạnh tranh của mình để có thể đứng vững khi bão táp của qúa trình hội nhập quốc tế ập đến. Sức cạnh tranh được nâng cao ở đây là nói đến sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp trong nươc, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, giữa các cá nhân trong nước với cá nhân trong nước, giữa cá nhân trong nước với cá nhân nứoc ngoài (cũng có thể coi đây là hệ quả tất yếu của sự phát triển của lực lượng sản xuất)
Tạo nên sự năng động của nền kinh tế thị trường Việt Nam.
Sự năng động còn thể hiện ở sự phát triển nhiều thành phần kinh tế. Bởi vì, việc phát triển nhiều thành phần kinh tế có tác dụng thu hút nguồn nhân lực vào các thành phần kinh tế, phát huy nội lực, tận dụng nội lực để sản xuất ra nhiều hàng hoá thu lợi nhuận(lợi nhuận siêu nghạch, lợi nhuận độc quyền) hay nâng cao trình độ sản xuất trong một nghành, một lĩnh vực nhất định .
Thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế.
Với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, siêu lợi nhuận . Sự đầu tư trong nước và đầu tư ra nước ngoài ngày càng phát triển, hay nói cách khác là thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế.
Mỗi nước đều có những ưu thế, lợi thế riêng. Do thời gian và trình độ xuất phát điểm của nền kinh tế khác nhau nên khi nước này cần vốn thì nước kia lại thừa.Do tốc độ phát triển khác nhau nên khi nước này phát triển thì nước kia lại quá lạc hậu; do sự phân bố tài nguyên khác nhau nên nước này có điều kiện sản xuất cía này, nước kia có điều kiện sản xuất cái kiavà tạo ra một lợi thế so sánh trên thương trường.Điều này thúc đẩy sự chuyên môn hoá, hiệp tác hoá sản xuất để có chi phí sản xuất thaaps và tuân theo sự điều tiết của quy luật giá trị , chi phí sản xuất thấp sẽ làm cho giá cả thấp, và do đó thắng trên thương trường.
Trong lĩnh vực lưu thông
Phân phối và lưu thông trong xã hội chủ nghĩa có sự tác động khách quan của quy luật giá trị .Việc vận dụng quy luật trong lưu thông ,phân phối được thể hiện ở những mặt sau:
Về hình thành giá cả.
Hình thức vận dụng quy luật giá trị tập trung nhất là khâu hình thành giá cả.Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị,cho nên khi xác định giá cả phải đảm bảo yêu cầu khách quan là lấy giá trị làm cơ sở,phản ánh đầy đủ những hao phí về vật tư và lao động để sản xuất hàng hoá .Giá cả phải bù đắp chi phí sản xuất hợp lí ,tức là bù đắp giá thành sản xuất ,đồng thời phải bảo đảm một mức lãi thích đángđể tái sản xuất mở rộng.Đó là nguyên tắc chung áp dụng phổ biến cho mọi quan hệ trao đổi ,quan hệ giữa các xí nghiệp quốc doanh với nhau ,cũng như nhà nước với nông dân .
Giá cả là một phạm trù phức tạp ,sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị là một tất yếu khách quan của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa .Nhà nước ta đã vận dụng quy luật giá trị vào những mục đích nhất định ,đã phảI tính đến những nhiệm vụ kinh tế ,chính trị trước mắt và lâu dàI,căn cứ vào nhiều quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Về nguồn hàng lưu thông.
Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ,việc cung cấp hàng hoá cho thị trường dược thực hiện một cách có kế hoạch.Đối với nhưng mặt hàng có quan hệ lớn đến quốc kế dân sinh,nếu cung cầu không cân đối thì nhà nươc dùng biện pháp đẩy mạnh sản xuất,tăng cường thu mua ,cung cấp theo định lượng ,theo tiêu chuẩn mà không thay đổi giá cả.Chính thông qua hệ thống giá cả quy luật có ảnh hưởng nhất định đến việc sự lưu thông của một hàng hoá nào đó.Giá mua cao sẽ khơi thêm nguồn hàng ,giá bán hạ sẽ đẩy mạnh việc tiêu thụ,và ngược lại.Do đó mà nhà nước ta đã vận dụng vào việc định giá cả sát giá trị ,xoay quay giá trị để kích thích cải tiến kĩ thuật ,tăng cường quản lí.Không những thế nhà nước ta còn chủ động tách giả cả khỏi giá trị đối với từng loại hàng hoá trong từng thời kì nhất định ,lợi dụng sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị để điều tiết một phần sản xuất và lưu thông ,điều chỉnh cung cầu và phân phối Giá cả được coi là một công cụ kinh tế quan trọng để kế hoạch hoá sự tiêu dùng của xã hội
Trên đây là các thông tin về Quy luật giá trị trong sản xuất và lưu thông hàng hóa mà ACC cung cấp tới quý bạn đọc Nếu còn bất kỳ thắc mắc nào cần hỗ trợ về vấn đề trên vui lòng liên hệ với Công ty Luật ACC của chúng tôi. Công ty Luật ACC luôn cam kết sẽ đưa ra nhưng hỗ trợ tư vấn về pháp lý nhanh chóng và có hiệu quả nhất. Xin chân thành cảm ơn quý bạn đọc.
Nội dung bài viết:
Bình luận