Với cách trình bày trích dẫn từng điều luật và phần bình luận tương ứng, đối chiếu với các điều khoản của Luật tố tụng hành chính năm 2010, cuốn sách sẽ giúp người đọc dễ dàng có được những thông tin hữu ích trong việc nghiên cứu cũng như vận dụng khi cần thiết.
1. Về tác giả
Cuốn sách “Bình Luận Khoa Học Luật Tố Tụng Hành Chính 2015” được biên soạn bởi Thạc sỹ Luật Đoàn Tấn Minh, Luật sư Nguyễn Ngọc Điệp, đây là những chuyên gia pháp lý giàu kinh nghiệm.
2. Giới thiệu tranh sách
Sách Bình Luận Học Thuật Luật Tố Tụng Hành Chính 2015 của Thạc sĩ Luật Đoàn Tấn Minh và Luật gia Nguyễn Ngọc Diệp
Bình Luận Khoa Học Luật Tố Tụng Hành Chính 2015
Thạc sĩ luật Đoàn Tấn Minh và luật gia Nguyễn Ngọc Điệp
Nhà xuất bản: Lao động
3. Trình bày chung nội dung cuốn sách
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập, nghiên cứu và áp dụng Luật Tố tụng hành chính năm 2015 của bạn đọc nói chung và những người hành nghề luật nói riêng, Nhà xuất bản Lao Động xuất bản cuốn sách “Bình luận khoa học về Luật Tố tụng hành chính năm 2015” do Thạc sĩ luật Đoàn Tấn Minh và Luật sư Nguyễn Ngọc Điệp là những chuyên gia pháp lý giàu kinh nghiệm biên soạn. Vừa qua, Luật Tố tụng hành chính đã được thông qua thay thế Luật Tố tụng hành chính năm 2010 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2016. Đây là một đạo luật quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Luật Tố tụng hành chính mới được ban hành trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định của Luật tố tụng hành chính 2010, nhưng đã bổ sung nhiều quy định mới nhằm bảo đảm tính công khai, minh bạch của hoạt động tố tụng, bảo đảm quyền khởi kiện và mở rộng thẩm quyền của Tòa án, không chỉ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người khiếu kiện mà còn tạo cơ sở pháp lý để những người tiến hành tố tụng hành chính giải quyết khiếu nại một cách nhanh chóng, chính xác.
Cuốn sách Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hành chính năm 2015 do thạc sĩ luật Đoàn Tấn Minh và luật sư Nguyễn Ngọc Điệp biên soạn gồm 2 phần:
- Phần I: BÌNH LUẬN KHOA HỌC VỀ LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH 2015
- Phụ lục: CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT LIÊN QUAN (VẪN CHÍNH SÁCH)
Dưới đây là một số nội dung mới đáng chú ý của Luật tố tụng hành chính 2015 so với Luật tố tụng hành chính 2010.
Thứ nhất, Luật Tố tụng hành chính hiện hành quy định quyền khởi kiện đối với quyết định hành chính (QĐHC), hành vi hành chính (HVHC) của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện được Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý, giải quyết theo thủ tục sơ thẩm. Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016, đơn khởi kiện quyết định hành chính, quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện do Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.
Đây là quy định mới trong thủ tục hành chính, nguyên đơn cần đảm bảo thực hiện quyền khởi kiện của mình theo đúng quy định của pháp luật.
Đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính có thể đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại do quyết định hành chính, vi phạm hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc (QĐKLBTV), quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri gây ra thì phải được yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ.
Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể tiến hành kiểm tra, thu thập tài liệu, chứng cứ để đảm bảo việc giải quyết vụ án được chính xác. Trong trường hợp có yêu cầu bồi thường thiệt hại nhưng không có điều kiện chứng minh thì Tòa án có thể tách yêu cầu bồi thường thiệt hại để giải quyết sau bằng một việc dân sự khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Thời hiệu khởi kiện là 01 năm, kể từ ngày nhận được hoặc biết được lệnh hành chính, mệnh lệnh hành chính, quyết định hành chính, mệnh lệnh, quyết định; 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại đối với quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; kể từ ngày nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan đăng ký cử tri hoặc hết thời hạn giải quyết khiếu nại mà không nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan đăng ký cử tri cho đến trước ngày bầu cử 05 ngày.
Trường hợp các bên liên quan gửi đơn khiếu nại theo quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện là 01 năm, kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai.
01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có liên quan không giải quyết và không trả lời bằng văn bản cho người khiếu nại.
Trường hợp sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác cản trở nguyên đơn khởi kiện trong thời hạn nêu trên thì thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác không tính vào thời hiệu khởi kiện.
Các quy định của Bộ luật dân sự liên quan đến việc xác định thời hạn và thời hiệu được áp dụng trong tố tụng hành chính. Thứ hai, cơ quan chịu trách nhiệm tố tụng là: Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Người có trách nhiệm giải quyết thủ tục hành chính gồm: Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký; Tổng chưởng lý, công tố viên.
Và việc bổ sung người đại diện theo pháp luật trong tố tụng hành chính là điều tra viên ngành toà án, kiểm sát viên ngành công tố để thực hiện chức năng tư pháp khi đảm trách tiến hành tố tụng.
Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được quy định rõ tại Chương III Luật tố tụng hành chính.
Thứ ba, vai trò, trách nhiệm của kiểm sát viên trong tố tụng hành chính. Kiểm sát viên chịu trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính phải có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. Khi người đó vắng mặt thì Hội đồng xét xử tiếp tục tiến hành xét xử mà không phải hoãn phiên tòa.
Khi tham gia phiên tòa phải tư vấn về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi Tòa án nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. đồng thời gửi văn bản thông báo cho Tòa án để ghi vào hồ sơ vụ án.
Tại các phiên họp xét kháng cáo quá hạn đều có sự tham gia của Kiểm sát viên cùng cấp và những người kháng cáo quá hạn. Nếu công tố viên hoặc người kháng cáo đến muộn thì toà án vẫn tiến hành phiên họp. Khi xét xử phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên được ủy quyền của Viện kiểm sát cùng cấp phải có nhiệm vụ tham gia xét xử. Trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị nhưng Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa.
Thứ tư, khi giải quyết vụ án hành chính, nếu phát hiện văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án hành chính có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên thì Tòa án xử lý:
Trường hợp chưa có quyết định khởi tố vụ án thì Chánh án Tòa án đang thụ lý giải quyết vụ án kiến nghị theo thẩm quyền hoặc đề nghị người có thẩm quyền kiến nghị.
Trường hợp đã quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc vụ án được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì thành lập Tòa án yêu cầu Chánh án Tòa án đang thụ lý giải quyết vụ án kiến nghị hoặc yêu cầu người có thẩm quyền kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên.
Tại phiên tòa, nếu Hội đồng xét xử phát hiện văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái pháp luật thì Hội đồng xét xử phải báo cáo bằng văn bản với Chánh án Tòa án để thực hiện quyền khởi kiện.
Hội đồng xét xử có quyền tạm ngừng phiên tòa để chờ ý kiến của Chánh án Tòa án hoặc tạm đình chỉ giải quyết vụ án khi có văn bản kiến nghị của Chánh án Tòa án có thẩm quyền.
Năm là, giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục rút gọn tại Tòa án cấp sơ thẩm là thủ tục giải quyết vụ án hành chính khi có các điều kiện:
- Vụ án có tình tiết đơn giản, tài liệu, chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, bảo đảm đủ căn cứ giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ.
- Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng; không có đương sự cư trú ở nước ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài có thỏa thuận với đương sự ở Việt Nam đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn, nhằm rút ngắn về thời gian và thủ tục so với thủ tục giải quyết vụ án hành chính thông thường nhưng vẫn bảo đảm giải quyết vụ án đúng pháp luật.
- Tuy nhiên, Tòa án có thể quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường nếu:
Phát sinh các tình tiết mới mà các đương sự không thống nhất và cần phải xác minh, thu thập thêm tài liệu, chứng cứ hoặc cần phải tiến hành giám định; cần phải định giá tài sản nếu các đương sự không thống nhất về giá; cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; phát sinh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phát sinh yêu cầu độc lập; phát sinh đương sự cư trú ở nước ngoài mà cần phải thực hiện ủy thác tư pháp.
Trong trường hợp này, thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được tính lại kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Thứ sáu, thời hạn kháng cáo bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm theo thủ tục rút gọn là 07 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo kể từ ngày bản án, quyết định được giao hoặc niêm yết công khai cho họ.
Thời hạn kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án cấp cao theo thủ tục rút gọn của Viện kiểm sát cùng cấp là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 10 ngày, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm ra một trong các quyết định: tạm đình chỉ, đình chỉ hoặc xét xử phúc thẩm vụ án như thường lệ.
Phiên tòa phúc thẩm rút gọn phải được tiến hành như bình thường, nhưng do một Thẩm phán trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán phải mở phiên tòa phúc thẩm.
Phiên tòa có mặt các đương sự, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp; nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, trừ trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị phúc thẩm.
Bảy là, người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là:Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp tỉnh, Tòa án cấp huyện thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
Tám là, thủ tục giải quyết vụ án hành chính có yếu tố nước ngoài là vụ án thuộc một trong các trường hợp:
Có đương sự là người nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, chi nhánh, văn phòng đại diện của cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam; có đương sự là công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài.
Việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính đó xảy ra ở nước ngoài; có liên quan đến tài sản ở nước ngoài. Trình tự, thủ tục thụ lý, giải quyết vụ án hành chính có yếu tố nước ngoài được quy định riêng tại Chương XVIII của Luật này.
Trường hợp chương này không có quy định thì áp dụng quy định khác có liên quan của luật này để giải quyết.
Thứ chín, nghĩa vụ tài chính đối với đương sự trong vụ án hành chính được Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định cụ thể về Án phí, lệ phí Tư pháp; án phí và án phí đối với từng loại vụ án; các trường hợp miễn, giảm hoặc không phải nộp án phí và các vấn đề cụ thể khác liên quan đến án phí, lệ phí.
Ngoài ra, Ủy ban thường vụ Quốc hội còn quy định chi phí tố tụng khác liên quan đến chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài, chi phí giám định và giám định tại chỗ, chi phí giám định và giám định đất đai; chi phí người làm chứng, người phiên dịch; chi phí tố tụng khác do luật khác quy định và việc miễn, giảm chi phí tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và được quy định tại Chương XXII của Luật này.
Thứ mười, xử lý hành vi cản trở quá trình xử lý hành chính đối với các hành vi sau: Vi phạm nội quy phiên tòa; làm tổn hại uy tín của Tòa án, danh dự, nhân phẩm, sức khỏe của người tiến hành tố tụng hoặc người khác thực hiện chức năng của họ theo yêu cầu của Tòa án. Cản trở việc Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ; cố ý không có mặt khi được triệu tập đến phiên tòa; can thiệp vào việc giải quyết vụ án.
Cản trở việc giao, nhận, cấp, tống đạt, thông báo các thủ tục của Tòa án; cản trở người đại diện của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia tố tụng theo yêu cầu của Tòa án.
Khai báo sai sự thật nhằm cản trở việc giải quyết vụ án của Tòa án; của cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện quyết định của Tòa án về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.
Hình thức xử phạt, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng hành chính được thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Trong trường hợp một người vi phạm các quy tắc xét xử đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, Tòa án có quyền khởi tố vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự. Trường hợp Tòa án khởi tố vụ án hình sự thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố, Tòa án phải chuyển cho Cơ quan công tố có thẩm quyền quyết định khởi tố vụ án và tài liệu, chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Mười một là, khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hành chính. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng hành chính của cơ quan, người tiến hành tố tụng hành chính khi có lý do cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Thời hiệu khiếu nại là 10 ngày, kể từ ngày người khiếu nại nhận được hoặc biết được quyết định tố tụng hoặc hành vi mà mình cho là trái pháp luật.
Nếu khiếu nại thuộc về tổ chức tiến hành tố tụng thì người chịu trách nhiệm tố tụng của tổ chức này sẽ phải giải quyết theo thẩm quyền của mình. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người khiếu nại nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, nếu không đồng ý với quyết định này hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai.
Người khiếu nại, người tố cáo có các quyền và nghĩa vụ quy định tại Chương XXI của luật này.
Trên đây là một số nội dung mới của luật tố tụng hành chính các bạn trong ngành cần lưu ý, hy vọng sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn để công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính trong thời gian tới đạt kết quả tốt hơn.
4. Đánh giá của độc giả
Với phần khái quát từng điều luật và phần bình luận tương ứng ngay bên dưới rất dễ hiểu, so sánh với các điều khoản của Luật Tố tụng hành chính 2010, cuốn sách giúp người đọc dễ dàng có được những thông tin hữu ích trong việc nghiên cứu cũng như vận dụng khi cần thiết. Mặc dù hệ thống pháp luật về thủ tục hành chính vẫn đang được hoàn thiện và còn nhiều phức tạp, nhưng với sự cố gắng biên soạn với cách trình bày hợp lý, cách diễn đạt chính xác, sát thực tế, bạn đọc sẽ tiếp cận dễ dàng hơn với việc tìm hiểu pháp luật về thủ tục hành chính.
Với phần phụ lục là các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến thủ tục hành chính đang còn hiệu lực thi hành sẽ giúp bạn đọc dễ dàng tìm kiếm và tham khảo khi cần thiết.
Đúng như tên cuốn sách “Bình luận khoa học về Luật Tố tụng hành chính 2015”, nhóm tác giả đã cung cấp cho bạn đọc những đánh giá chung nhất về các quy định của Luật Tố tụng hành chính 2015. Hi vọng cuốn sách sẽ hữu ích với bạn đọc!
Nội dung bài viết:
Bình luận