1. Khái niệm chỉnh sửa
Pháp lệnh là văn bản quy phạm pháp luật hoặc văn bản quy phạm pháp luật cụ thể của người đứng đầu bộ máy nhà nước hoặc bộ máy hành pháp. Sắc lệnh xuất hiện trong nhà nước La Mã cổ đại. Ban đầu, sắc lệnh là tên gọi của văn bản của một cơ quan của hội đồng, sau đó nó được dùng để chỉ văn bản của hoàng đế. Trong cuộc cách mạng tư sản ở Pháp, sắc lệnh được ban hành bởi tổng thống và thủ tướng Pháp. Sắc lệnh của Chủ tịch nước có hiệu lực sau khi được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành. Sắc lệnh cũng là một văn bản do tổng thống của một số quốc gia châu Phi có cùng hệ thống nhà nước với Cộng hòa Pháp ban hành. Ở một số quốc gia Anh-Mỹ, một số loại quyết định của tòa án còn được gọi là nghị định.
Ở nhà nước Xô viết cũ, trước khi có Hiến pháp 1924, một số văn bản luật quan trọng được ban hành dưới hình thức sắc lệnh, với những sắc lệnh đầu tiên của chính quyền Xô viết được thông qua tại Hội nghị các Xô viết. 26, 1917, chẳng hạn như Sắc lệnh Hòa bình, Sắc lệnh Ruộng đất, Sắc lệnh Chế độ Thanh tra Lao động. Sau khi Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết được thành lập, các cơ quan ban hành sắc lệnh là Ban Chấp hành Trung ương, Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương và Hội đồng Nhân dân. Theo Hiến pháp 1936, Sắc lệnh là hình thức pháp lý của Xô viết Tối cao của các nước Cộng hòa Liên bang. Hình thức của văn bản sắc lệnh sau này không được Hiến pháp Liên Xô 1977 quy định. Theo quy định của Hiến pháp Việt Nam 1946, nghị định là văn bản do Chủ tịch nước (lệnh bổ nhiệm Thủ tướng) ban hành. (, nhân viên nội các và các quan chức cấp cao của các cơ quan chính phủ) hoặc do chính phủ - cơ quan hành chính cấp cao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNCH) cấp phải có chữ ký của chủ tịch nước và phải được chính phủ phê duyệt. một hoặc nhiều bộ trưởng nhận Ki.
Nghị định (Decree - tiếng Pháp) là thuật ngữ pháp lý phản ánh một trong những hình thức hoặc nguồn cơ bản của hệ thống pháp luật các quốc gia thuộc hệ thống pháp luật lục địa. ). Đó là hệ thống pháp luật lớn nhất thế giới, được xây dựng dựa trên di sản của luật La Mã (jus civile), được phát triển ở Pháp, Đức và một số nước châu Âu lục địa. Trong đó, pháp luật của Pháp và Đức là quan trọng nhất và có ảnh hưởng lớn đến pháp luật của các nước khác thuộc hệ thống pháp luật này. Pháp lệnh còn được hiểu là mệnh lệnh, văn bản do nguyên thủ quốc gia (tổng thống hoặc tổng thống) ban hành, quy định những điều quan trọng, có giá trị như một văn bản pháp luật do chính phủ ban hành, mà mọi người phải tuân theo. Ở Pháp, các sắc lệnh do Tổng thống ban hành (từ năm 1958, Thủ tướng Pháp cũng có thể ban hành) có ít hiệu lực hơn luật. Tuy nhiên, có những sắc lệnh được ban hành trong lĩnh vực luật dưới sự ủy quyền của Nghị viện, có hiệu lực tương tự như luật được gọi là Décret-Lợi (Decree-Law).

2. Đặc điểm của nghị định
Là một dạng luật thành văn, mang tính mệnh lệnh và được ban hành bởi một chủ thể đặc biệt là nguyên thủ quốc gia (người đứng đầu cơ quan hành pháp), do đó nghị định thường được áp dụng phổ biến trong những trường hợp đặc biệt (như: chiến tranh, thiên tai, tình trạng khẩn cấp của nhà nước... ) nhằm đáp ứng yêu cầu điều chỉnh kịp thời các quan hệ pháp luật. Trong những tình thế nóng bỏng, chính phủ nắm giữ vận mệnh đất nước không thể ngồi chờ luật pháp thông qua những thủ tục rườm rà, mất thời gian. Việc ban hành nghị định được coi là một quyền lập pháp trong những trường hợp khẩn cấp của chính phủ mà chỉ có người đứng đầu chính phủ (hoặc người được người đứng đầu chỉ định) mới có thẩm quyền ký ban hành. Ưu điểm cơ bản của pháp lệnh là vừa đảm bảo hiệu lực pháp lý cao (do Nguyên thủ quốc gia ban hành) vừa có thể được xây dựng và ban hành nhanh chóng, đáp ứng kịp thời yêu cầu cụ thể và tính cấp thiết của việc điều chỉnh pháp luật.
3. Hệ thống pháp lệnh về xây dựng, củng cố chính quyền, tòa án và quân đội
Hệ thống các nghị định về xây dựng, củng cố chính quyền, tòa án và quân đội, bao gồm:
(1) Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền trung ương mới của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành lập Chính phủ lâm thời từ Quốc dân Đại hội Tân Trào (16-8-1945) và nước Việt Nam trở thành một nước tự do, độc lập nhưng có chưa được quốc gia nào công nhận. Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu hiểu sâu sắc rằng chỉ sau khi Quốc hội được bầu ra thông qua tổng tuyển cử và Hiến pháp được Quốc hội phê chuẩn thì quyền lực Nhà nước của nhân dân Việt Nam mới được xác lập một cách hợp pháp. Chính vì vậy, chỉ một ngày sau ngày tuyên bố độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị sớm tổ chức tổng tuyển cử và xây dựng hiến pháp nhằm trước hết tuyên bố chế độ dân chủ. quyền của người dân. hợp pháp hóa chính quyền do nhân dân lập ra sau Cách mạng Tháng Tám. Chính phủ quyết định tổ chức tổng tuyển cử để sớm có một nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra và ban hành một loạt sắc lệnh bầu cử (khoảng 10 sắc lệnh) để tạo cơ sở pháp lý cho tổng tuyển cử tự do, dân chủ.
Mở đầu là Sắc lệnh 14 ngày 8-9-1945 mở cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội (tức Quốc hội). Sắc lệnh gồm 7 điều khẳng định yêu cầu cấp thiết của tổng tuyển cử, cơ sở pháp lý, điều kiện khách quan, chủ quan để tiến hành tổng tuyển cử và ấn định chính thức trong thời hạn hai tháng (kể từ ngày tổng tuyển cử). nghị định) sẽ mở cuộc tổng tuyển cử bầu đại biểu Quốc hội với số lượng là 300 người. Tiếp đó, Sắc lệnh 39 ngày 26-9-1945 v/v thành lập Ban soạn thảo thể lệ tổng tuyển cử, quy định thành lập Ban soạn thảo Tổng tuyển cử và Uỷ ban soạn thảo Hiến pháp. Sau một tháng rưỡi, Uỷ ban này soạn thảo xong bản dự thảo trình Chính phủ lâm thời ra Sắc lệnh số 51 ngày 17-10-1945 quy định thể lệ tổng tuyển cử, gồm 12 khoản, 70 điều. Đây là sắc lệnh quan trọng nhất, cụ thể và toàn diện nhất với sự điều tiết thực sự tự do và dân chủ. Sắc lệnh này quy định việc tiến hành tổng tuyển cử trong cả nước theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín, đồng thời xác định cuộc tổng tuyển cử sẽ được tổ chức trong cả nước vào ngày 23 và 23 tháng 12 năm 1945.
Tuy nhiên, nhận thấy cần phải hoàn thiện một số vấn đề và xúc tiến cụ thể công tác chuẩn bị cho tổng tuyển cử, ngày 2-12-1945, Chính phủ đã tiến hành ra Sắc lệnh 71 v/v sửa đổi Điều 11 Chương 5 của Sắc lệnh ngày 17-10. , 1945 và Sắc lệnh 72 v/v bổ sung bảng đại biểu của từng tỉnh, thành phố kèm theo Nghị định ngày 17 tháng 10 năm 1945 v/v bổ sung thể lệ tổng tuyển cử để sửa đổi thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người ứng cử, và hoàn thành số lượng đại biểu được bầu cho một số tỉnh để nâng tổng số đại biểu Quốc hội lên 330 người. Do giao thông đi lại khó khăn và để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho công dân có quyền bầu cử thực hiện quyền tự do ứng cử, Pháp lệnh 71 cũng sửa đổi Điều 11 của Pháp lệnh 51 theo hướng chỉ cần ứng cử là trúng cử. đơn của người ứng cử đến ủy ban nhân dân (UBND) nơi người đó cư trú” và “đề nghị ủy ban nhân dân này điện báo cho ủy ban nhân dân tỉnh (thành phố) nơi người đó ứng cử” sẽ được đưa vào danh sách thí sinh của tỉnh, thành phố. Đơn và giấy xác nhận tư cách ứng cử sẽ do ủy ban nhân dân nơi cư trú chuyển đến ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố.
Để tạo điều kiện cho những người đủ điều kiện ứng cử và có nguyện vọng ứng cử có đủ thời gian để ứng cử và vận động bầu cử, Chính phủ đã ra Sắc lệnh 76 ngày 18-12-1945, quyết định hoãn tổng tuyển cử. đến ngày 06 tháng 01 năm 1946 và kéo dài thời hạn áp dụng đến ngày 27 tháng 12 năm 1945. Do điều kiện thông tin, giao thông khó khăn, Sắc lệnh bổ sung thêm, nếu lệnh hoãn không đến kịp thì Chính phủ vẫn cho phép tổ chức tổng tuyển cử theo quy định. quy định cũ ngày 23-12-1945 và sẽ báo ngay kết quả cho Bộ Nội vụ.
Thực hiện các sắc lệnh trên và theo đúng kế hoạch, ngày 6-1-1946, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I đã được tổ chức sôi nổi và thành công trong cả nước; trở thành đợt sinh hoạt chính trị lớn trên phạm vi cả nước và là dịp kỷ niệm của quần chúng. Kết quả, số cử tri đi bầu trong cả nước đạt 89% (có nơi đạt 95%). Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu và trúng cử tại Hà Nội, Người được 98,4% số phiếu bầu. Tuy được tổ chức trong hoàn cảnh khó khăn, nhưng cuộc tổng tuyển cử đã thành công tốt đẹp, trở thành hiện thực sinh động của cuộc tổng tuyển cử tự do, dân chủ; mang lại quyền tự do dân chủ thực sự cho người dân và giá trị pháp lý cho bộ máy nhà nước (BMNN).
Sau tổng tuyển cử và thực hiện Sắc lệnh 03 ngày 09-01-1946, Quốc hội khóa I họp kỳ thứ nhất, công nhận danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu và bầu ra Ủy ban của Quốc hội. Dự thảo hiến pháp gồm 11 người để tiếp tục nghiên cứu về dự thảo hiến pháp. Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Quốc hội khóa I thành lập được công nhận là chính phủ chính thức và hợp pháp. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử và của Quốc hội khóa I có ý nghĩa chính trị, pháp lý to lớn bước qua một giai đoạn cơ bản, đánh dấu sự trưởng thành của Nhà nước cách mạng; là bước pháp lý hóa và phát triển đầu tiên trong việc hiện thực hóa mô hình nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước pháp quyền của nhân dân; pháp lý hóa và củng cố địa vị pháp lý của nhà nước Việt Nam mới ở trong và ngoài nước. Do đó, Chính phủ có đầy đủ uy tín và hiệu lực pháp lý để lãnh đạo đất nước về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì lợi ích tối cao của cả nước và hạnh phúc của nhân dân.
(2). Nhận thức rõ tầm quan trọng, vai trò của Hiến pháp theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cổ vũ cuộc tổng tuyển cử, ngày 20-9-1945, Chính phủ ra Sắc lệnh 34 v/v lập Ủy ban dự thảo và trình Quốc hội bản. của Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Xuất phát từ thực tế của đất nước và tham khảo hiến pháp của một số nước châu Âu, châu Mỹ, trong hơn một tháng, Ban soạn thảo đã khẩn trương trình Chính phủ thảo luận, cho ý kiến nhằm hoàn thiện dự thảo bảo đảm ngắn gọn, súc tích, làm rõ bản chất dân chủ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngày 9-11-1946, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa I đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với 240/242 phiếu tán thành và chính thức có hiệu lực.
Khẳng định nguyên tắc quyền lực nhà nước của nhân dân, Điều 1 của Hiến pháp ghi rõ: “Tất cả quyền lực trong nước thuộc về tất cả nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, đàn bà, giàu nghèo, giai cấp, tầng lớp, tôn giáo. ”. Hiến pháp quy định thể chế của nước Cộng hòa Dân chủ Trung Hoa - một thể chế trong đó quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm quyền bình đẳng, dân chủ và tự do cho mọi công dân, bất kể nam hay nữ; chăm lo cho đồng bào các dân tộc thiểu số...
Theo quy định của Hiến pháp, Chủ tịch nước thay mặt chính phủ ban hành các sắc lệnh để phối hợp công tác của nhà nước, xây dựng và củng cố nền hành chính nhà nước; có quyền ký các sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng, nhân viên Nội các và các quan chức cao cấp của các cơ quan chính phủ (Điều 49). Đồng thời, “mọi nghị định của Chính phủ đều phải có chữ ký của Chủ tịch nước và tùy theo quyền hạn của các bộ mà phải có chữ ký của một hoặc nhiều bộ trưởng. Các bộ trưởng này chịu trách nhiệm trước Quốc hội” (điều 53). Hiến pháp củng cố nền độc lập mới giành được, là cơ sở pháp lý cơ bản và quan trọng để xây dựng, hoàn thiện và củng cố tổ chức, hợp hiến hóa và hợp pháp hóa chính quyền mới.
(3). Về tổ chức chính quyền địa phương (chính quyền địa phương): sau Cách mạng tháng Tám, Bộ Ngoại giao ta ở Trung kỳ có chính quyền lâm thời, còn ở các địa phương chỉ có Uỷ ban nhân dân cách mạng. Việc cấp thiết đặt ra là phải khẩn trương xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền địa phương để thực thi chủ quyền và quản lý đất nước; thực hiện chức năng cầu nối, bảo vệ, bảo đảm quyền và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, trực tiếp lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước (phát triển kinh tế, kiến quốc, kháng chiến...). Để xây dựng cơ sở pháp lý cho tổ chức chính quyền địa phương, Chính phủ lâm thời đã nhanh chóng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thành lập hệ thống chính quyền địa phương. Tuy là lĩnh vực có số lượng nghị định ít nhưng lại có vị trí hết sức quan trọng, quyết định bởi các nghị định này đặt nền móng cho mô hình chính quyền địa phương về cơ cấu, tổ chức và hoạt động của chính quyền, HĐND, UBND. Trong đó, Sắc lệnh số 63 ngày 22-11-1945 về tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính được coi là sắc lệnh đầu tiên và cơ bản nhất trong các sắc lệnh quy định về tổ chức chính quyền địa phương (xã, huyện, tỉnh, kỳ) ở nước ta sau đó. . Và một tháng sau, Sắc lệnh số 77 ngày 21-12-1945 về tổ chức chính quyền nhân dân ở trấn và thành phố quy định việc tổ chức chính quyền nhân dân ở đô thị. Hai sắc lệnh này được coi là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên quy định về tổ chức, quyền hạn và thể thức biểu quyết của chính quyền địa phương các cấp; đặt nền móng cho việc xây dựng chính quyền địa phương trong kháng chiến và tạo nên mô hình chính quyền địa phương cơ bản cho đến ngày nay. Như vậy, từ văn bản đầu tiên xác lập vị trí, vai trò của HĐND. Theo đó, HĐND là cơ quan do nhân dân (cử tri) trực tiếp bầu ra, trực thuộc hệ thống ngân sách nhà nước thống nhất. Hội đồng nhân dân có quyền bầu và bãi nhiệm các ủy viên Ban Chấp hành. Với tư cách là cơ quan chấp hành và điều hành, nhiệm vụ chính của các ủy ban hành chính là dựa vào các nghị quyết, quyết định của cấp trên và của HĐND cùng cấp để hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa... ở các vùng khác nhau. do địa phương và nhân dân lãnh đạo thực hiện. Cũng theo các nghị định này, Hội đồng nhân dân được thành lập ở cấp tỉnh, thành phố, xã, thị trấn; Uỷ ban hành chính được tổ chức ở tất cả các cấp, từ cấp kỳ đến cấp xã.
Tiếp đó, Sắc lệnh 77 nêu rõ: trừ các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh - Bến Thủy, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt và Sài Gòn Chợ Lớn, các tỉnh lỵ và quảng trường đô thị mất nhiều thời gian. còn trực thuộc tỉnh thì gọi là thành phố. Tổ chức chính quyền nhân dân ở thành phố cũng như tổ chức ở xã do Sắc lệnh 63 (22-11-1945) quy định sẽ trực thuộc tỉnh (đối với thành phố trực thuộc tỉnh thì quận thay đổi, thời kỳ thay đổi). sẽ có thêm các đơn vị hành chính cấp thành phố với những đặc thù về tổ chức chính quyền, Hà Nội là thành phố trực thuộc trung ương, các thành phố khác do các thời kỳ quản lý .
Các nghị định trên đã tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của hệ thống chính quyền địa phương. Và sau khi được ban hành, việc áp dụng các văn bản này được tiến hành hết sức khẩn trương: “Ở Bắc Bộ, đến tháng 4-1946, hầu hết các địa phương đã bầu xong Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính xã; Ở cấp huyện và tỉnh, cuộc bầu cử sẽ kết thúc sau đó vài tháng. Ở miền Trung, các tỉnh phải trực tiếp đấu tranh chưa có điều kiện áp dụng Sắc lệnh 63. Các tỉnh còn lại đều đã tiến hành các công việc cần thiết để tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp. Ở Nam Bộ, do chiến tranh lan rộng và ác liệt nên không thực hiện được hết tinh thần của Sắc lệnh 63, chỉ chuyển Uỷ ban nhân dân lâm thời thành Uỷ ban hành chính lâm thời”[6]. Đến đây, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được xây dựng và củng cố trên cả cơ sở thực tiễn và pháp lý - một chính quyền hợp pháp, hợp hiến của nhân dân.
(4). Trong hoàn cảnh đất nước vô cùng khó khăn, diễn biến phức tạp bởi “thù trong, giặc ngoài” thì việc củng cố, tăng cường hệ thống cơ quan chuyên chính (tòa án, công an, quân đội cách mạng) để nhà nước thực hiện chức năng chuyên chính với kẻ thù và kịp thời ổn định trật tự trị an xã hội là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Bằng các sắc lệnh của Chính phủ, hệ thống tòa án cách mạng đã được thiết lập từ những ngày đầu tiên sau độc lập để kịp thời ngăn chặn, trừng trị những hành động chống đối, phá hoại của thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền nhân dân, giải quyết các vụ dân sự, hình sự và giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt đó, Chính phủ đã nhanh chóng tổ chức tòa án khá đa dạng với những tên gọi, chức năng và thẩm quyền khác nhau, gồm:
- Tòa án quân sự được thành lập từ sớm do liên bộ Bộ Quốc phòng - Bộ Nội vụ chỉ đạo, với sự mở đầu là Sắc lệnh 33C ngày 13-9-1945 v/v thiết lập Tòa án quân sự ở Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ và quy định quyền hạn xét xử của các Tòa án đó (khởi điểm lịch sử ngành Tòa án cách mạng Việt Nam bắt đầu từ thời điểm này).
Theo đó, các Tòa án quân sự được thiết lập gồm: ở Bắc Bộ tại Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình; ở Trung Bộ tại Vinh, Huế, Quảng Ngãi; ở Nam Bộ tại Sài Gòn, Mỹ Tho (ở những tỉnh và thành phố quan trọng). UBND trong địa hạt của Trung Bộ và Nam Bộ có thể đề đạt lên Chính phủ xin mở thêm Tòa án quân sự ở những nơi trọng yếu khác (Điều 1). Ngoài ra, đối với những địa phương ở xa các Tòa án quân sự được thành lập theo Pháp lệnh này, trong trường hợp đặc biệt, chính quyền “có thể ủy quyền cho Ủy ban nhân dân địa phương thành lập Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử trong một thời hạn và theo nguyên tắc quy định tại Pháp lệnh này” (Điều 7).
Sau đó, Sắc lệnh số 21 ngày 14-2-1946 về tổ chức các Toà án quân sự quy định chức năng của Toà án quân sự là “xử phạt những kẻ phạm tội làm phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã xảy ra trước hoặc sau ngày 19 tháng 8 năm 1945, ngoại trừ trường hợp tù binh là quân nhân, quân nhân sẽ quyết định phải làm gì trong tình trạng thiết quân luật.
- Toà án quân sự lâm thời được thành lập theo Sắc lệnh 163 ngày 23 tháng 8 năm 1946, tổ chức là Toà án quân sự lâm thời đặt tại Hà Nội, trực thuộc Bộ Quốc phòng, có thẩm quyền xét xử quân nhân hoặc công tác trong nước. quân phạm tội hại quân.
- Các Toà án thường được thành lập theo Sắc lệnh 13 ngày 24/01/1946 quy định về tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán. Theo trình tự này, hệ thống cơ quan xét xử ở nước ta không có Tòa án tối cao mà được tổ chức theo mô hình Tòa án cấp cao (cấp), Tòa án thứ hai (cấp tỉnh), Tòa án sơ thẩm (cấp). huyện), được tổ chức độc lập với cơ quan hành chính. Các tòa án nói chung nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của Bộ Tư pháp, cơ quan có chức năng xét xử các vụ án dân sự và hình sự thông thường.
- Toà án đặc biệt được thành lập theo Sắc lệnh 64 ngày 23/11/1945, thành lập Uỷ ban thanh tra đặc biệt để "giám sát mọi công việc và nhân viên của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan khác của chính phủ (Điều 1). Sắc lệnh cũng ghi rằng "Tòa án đặc biệt sẽ được thành lập ngay tại Hà Nội để truy tố các nhân viên của ủy ban nhân dân hoặc các cơ quan chính phủ do Thanh tra truy tố. có chức năng xét xử các tội liên quan đến chức vụ (như hối lộ, tham nhũng...). Nhờ có hệ thống văn bản trên mà hệ thống tư pháp nước ta đã ra đời, thực hiện chức năng song song với việc bảo vệ thành quả cách mạng (chính quyền nhân dân) và được tổ chức trên cơ sở hợp nhất giữa thẩm quyền xét xử theo đơn vị hành chính lãnh thổ.
(5). Trong đó, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng là một trong những ưu tiên quan trọng và tuyệt đối của Chính phủ lâm thời nhằm bảo đảm an ninh, trật tự quốc gia, bảo vệ thành quả cách mạng sau thắng lợi chính trị và chuẩn bị lực lượng cho tương lai. tiếp cận cuộc kháng chiến kiến quốc. .
Ngày 9 tháng 9 năm 1945, Đảng và Nhà nước quyết định thành lập Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Việt Nam với chức năng là cơ quan tham mưu cao nhất chỉ huy, điều hành hoạt động quân sự của các lực lượng vũ trang cả nước, dưới sự giám sát của Bộ Công an. Phòng thủ. Chính phủ đã ban hành nhiều sắc lệnh quan trọng như: Sắc lệnh 34 ngày 25/3/1946 về tổ chức Bộ Quốc phòng. Theo điều lệnh này, tổ chức quân sự ở Trung ương gồm Bộ CHQS tỉnh, ở địa phương có các cơ quan tương ứng (tỉnh đội, huyện đội, xã đội); Sắc lệnh 71 ngày 22-5-1946 xác định điều lệ của Quân đội Quốc gia, quy định đổi Vệ quốc đoàn thành Quân đội Quốc gia Việt Nam, lấy tên Việt Nam Giải phóng quân là Vệ quốc đoàn (lực lượng bộ đội chủ lực). ) dưới sự lãnh đạo thống nhất của Bộ Tổng tham mưu. Vệ quốc quân gồm ba thứ quân: Chủ lực quân, Địa phương quân và Cứu quốc tự vệ. Sắc lệnh này cũng giới thiệu Quân lệnh của Quân đội Quốc gia Việt Nam, quy định rõ về kỷ luật và chế định thưởng phạt trong quân đội. Nhìn chung, công tác xây dựng quân đội quốc gia Việt Nam được tiến hành khẩn trương cả về chuẩn bị lực lượng và tổ chức bộ máy nhằm hợp pháp hóa quân đội quốc gia.
Bên cạnh củng cố, kiện toàn quân đội, sau khi giành chính quyền, chính quyền cũng rất quan tâm phát triển lực lượng an ninh quốc phòng từ trung ương đến địa phương. Vì vậy, tổ chức công an nhân dân trước đây được thành lập trong thời kỳ tiền khởi nghĩa đang tiếp tục củng cố, hoàn thiện thể chế.
Ngày 13-9-1945, chính phủ ban hành Lệnh 33A v/v quy định Ty Liêm phải khởi xướng và cơ quan công an phải tuân theo khi bắt người và Lệnh 33B v/v Ty Liêm phát động truy bắt những kẻ nguy hiểm. Việt Nam Cộng hòa để đưa họ đến nơi an toàn; quy định quyền hạn của bầu Ty Liêm chính trong việc thực hiện chức trách nhiệm vụ của mình; trình tự, thủ tục bắt người của cơ quan Liêm và cơ quan Công an.
Để thống nhất chỉ đạo về tổ chức bộ máy và hoạt động của lực lượng Công an, ngày 21-2-1946, Chính phủ ra Sắc lệnh 23 thành lập Nha Công an Việt Nam trực thuộc Bộ Nội vụ, kết hợp Sở Công an. An ninh và Bộ Liêm chính trở thành một cơ quan duy nhất, Công an Việt Nam - tổ chức chịu trách nhiệm thu thập thông tin và đề xuất các biện pháp đảm bảo an ninh, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Công an bởi Bộ Nội vụ. Ngày 18-4-1946, Bộ Nội vụ tiếp tục ra Sắc lệnh 121-NV/NĐ quy định chi tiết về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thuộc ngành Công an Việt Nam từ Trung ương đến địa phương.
4. Hệ thống sắc lệnh về các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội
(1) Về lĩnh vực chính trị: Hàng loạt văn bản (Tuyên ngôn Độc lập và nhiều sắc lệnh) đã tuyên bố xóa bỏ những hiệp ước bất bình đẳng mà triều đình Huế đã ký với Pháp trước đây, thủ tiêu những đặc quyền đặc lợi của thực dân đế quốc và bọn tay sai phản động; xóa bỏ chế độ chiếm đoạt ruộng đất, hầm mỏ, tài nguyên của thực dân đế quốc ở Việt Nam đồng thời thời xác lập quyền sở hữu của Nhà nước đối với các hầm mỏ và tài nguyên khác.
Để ổn định tình hình chính trị, Chính phủ đã ban hành một loạt Sắc lệnh 06 ngày 5-9-1945 v/v cấm (nhân dân) không được đăng lính, bán thực phẩm, làm tay sai cho quân đội Pháp.
Nhằm thủ tiêu các hình thức kinh tế và chính quyền thực dân, Chính phủ đã ra Sắc lệnh 36 ngày 22-9-1945 về việc bãi bỏ các nghiệp đoàn trong toàn cõi Việt Nam, bãi bỏ các nghiệp đoàn Nông sản, Lâm sản, Kỹ nghệ, Khoáng sản, Thương mại (Nội thương, Ngoại thương), Vận tải, Ngân hàng; Sắc lệnh 41 ngày 3-10-1945 v/v xóa bỏ các sở trước thuộc phủ toàn quyền Đông Dương và sáp nhập các sở đó vào các bộ của Chính phủ lâm thời Việt Nam, tuyên bố bãi bỏ các Sở thuộc Phủ toàn quyền Đông Dương ở Việt Nam.
Chính phủ cũng ban hành hàng loạt sắc lệnh về việc thành lập các bộ, cơ quan trong BMNN và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của những cơ quan này. Nhằm bảo vệ an ninh trật tự, Chính phủ cũng ban hành các sắc lệnh về việc trấn áp, trừng trị các đội bắt cóc, tống tiền, ám sát, tra tấn người trái phép, phá hoại tài sản công cộng, làm tiền giả, đưa và nhận hối lộ; thực hiện chế độ thiết quân luật ở một số đô thị lớn và tình hình phức tạp trong những thời điểm cần thiết (Hà Nội, Hải Phòng...); quy định bước đầu về quốc tịch, về các thủ tục thị thực giấy tờ để quản lý cư dân. Nhà nước cũng ban hành 4 sắc lệnh đại xá, ân xá cho những phạm nhân bị kết án trước ngày 19-8-1945 và dịp Quốc khánh. Hơn hết, dưới chế độ phong kiến và thực dân cũ, nhân dân ta không có quyền tự do, dân chủ. Dưới chế độ mới, việc thực hiện các quyền tự do, dân chủ của nhân dân không chỉ là nghĩa vụ của nhà nước mà còn là vấn đề liên quan trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của chính quyền cách mạng. Như vậy, đầu năm 1946, hàng loạt sắc lệnh quy định các quyền tự do dân chủ của nhân dân (tự do báo chí, tự do thông tin, tự do hội họp, biểu tình, tín ngưỡng, các quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhà ở, thư tín...) được ban hành.
(2). Về đời sống kinh tế: Sau khi ra mắt quốc dân và triển khai các nhiệm vụ, Chính phủ đã nhanh chóng xác định vấn đề quan trọng nhất lúc này là nhanh chóng phát triển đời sống để tạo niềm tin trong nhân dân, củng cố sức dân để chuẩn bị kháng chiến kiến quốc. chiến tranh. . Vì vậy, hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật ban hành về lĩnh vực này đều tập trung khắc phục khó khăn, phát triển sản xuất, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.
Để giải quyết nạn đói và phát triển sản xuất, nhà nước đã ban hành các sắc lệnh, sắc lệnh về việc thành lập các ban cứu tế, quỹ cứu tế, kho cứu tế; nghiêm cấm lãng phí, đầu cơ lương thực; bãi bỏ các quy định về hạn chế sản xuất công thương nghiệp; khuyến khích luân chuyển hàng hóa, nhân dân tự vận chuyển lương thực giữa các vùng. Theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ đã quyết định phát động các phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói (“Xóa đói”, “Hũ gạo kháng chiến”, “Tuần lễ vàng”, “Quỹ độc lập”, “Quỹ kháng chiến”. …). Nhờ đó, chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân cả nước đã quyên góp được hàng nghìn tấn gạo cứu đói với tinh thần “nhường cơm sẻ áo”. Khôi phục và phát triển sản xuất được coi là biện pháp quan trọng nhất để xóa đói, nhà nước đã đề ra nhiều chính sách, biện pháp thiết thực như cấm địa chủ bỏ ruộng, cho nông dân mượn đất hoang để trồng màu; phòng chống bão lụt, bảo vệ đê điều; di dân đến vùng trồng trọt, khuyến khích tiểu thương, buôn bán phát triển...
Để tiếp tục mở rộng sản xuất, chính phủ cũng đã ra lệnh cho các "trang trại ngân hàng" và "quỹ công cộng" tạo điều kiện cho nông dân vay tiền để mua cây trồng và hạt giống. Với sự nỗ lực của Đảng, Chính phủ và sự tích cực tăng gia sản xuất của toàn dân, các loại cây màu (ngô, khoai, sắn) được gieo trồng nhiều, sản lượng tăng, diện tích trồng lúa được khôi phục và mở rộng. . Việc giải quyết lương thực đạt kết quả xuất sắc, đưa Việt Nam thoát khỏi nạn đói một cách thần kỳ. Cuối năm 1945, cả nước đã kiểm soát được nạn đói hoành hành, nền kinh tế đất nước từng bước ổn định.
Cùng với nông nghiệp, kinh tế công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp cũng được khuyến khích phục hồi và phát triển. Để thúc đẩy nền kinh tế, chính phủ đã ban hành gần 70 nghị định trong lĩnh vực kinh tế tài chính và xây dựng cơ sở hạ tầng. Ví dụ: Sắc lệnh 48 ngày 9/10/1945 v/v cho phép các công ty, xí nghiệp nước ngoài tiếp tục kinh doanh. Sắc lệnh 42 ngày 4-10-1945 sửa đổi luật cũ về thuế thương nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp và tiền công, quy định cách tính lãi suất trong các lĩnh vực này; Sắc lệnh 48 ngày 9-10-1945 quy định việc tạm thời áp dụng luật cũ đối với các công ty, xí nghiệp công thương nghiệp nước ngoài tại Việt Nam; Sắc lệnh 05 ngày 15-1-1946 tước bỏ quyền quản lý, sử dụng tuyến đường sắt Hải Phòng - Vân Nam của Công ty đường sắt Vân Nam (Chính phủ Pháp ủy quyền cho Công ty đường sắt Vân Nam khai thác theo hợp đồng ký ngày 15-6-1901). Ngày 30 tháng 5 năm 1946, chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định 89 về việc tạm thời mua lại quyền tìm kiếm mỏ và Sắc lệnh 90 về việc chính phủ thành lập các mỏ ở khu vực Đông Triều và Thái Nguyên. Ngoài ra, các nghị định quy định về thành lập và phân bổ của các cơ quan quản lý ngành, lâm nghiệp, giao thông vận tải, tài chính, công nghiệp, v.v. đồng thời góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Về tài chính - thuế: nhằm khắc phục những khó khăn trước mắt về tài chính, Nhà nước đã động viên sự đóng góp tự nguyện của nhân dân đồng thời quyết định phát hành đồng tiền Việt Nam mới, được nhân dân đồng tình và ủng hộ.
Ngày 4-9-1945 Chính phủ ban hành Sắc lệnh 04 xây dựng Quỹ độc lập và phát động Tuần lễ vàng, kêu gọi nhân dân ủng hộ vàng, bạc, tiền, của cho Chính phủ sử dụng vào công cuộc kháng chiến kiến quốc. Thuế là một nội dung quan trọng được nhiều văn bản pháp luật đề cập tới, trong đó việc bãi bỏ thuế thân - thứ thuế dã man nhất đánh vào đầu người mà thực dân đã áp dụng ở Việt Nam theo Sắc lệnh 11 ngày 7-9-1945 không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa to lớn về chính trị. Cũng trong Sắc lệnh này, Nhà nước còn quy định xóa bỏ các thứ thuế cũ và đặt ra nhiều thuế mới.
Tiếp theo, các Sắc lệnh 38 ngày 27-9-1945 v/v bỏ thuế môn bài và giảm phụ thu ngân sách; SL 207 ngày 15-11-1946 v/v thay đổi thuế suất tối thiểu và thuế tổng nội đánh vào các hàng hóa nhập vào Việt Nam; Sắc lệnh 81 ngày 31-12-1945 v/v chi thu của các ngân sách trong năm 1946 cho phép các bộ, các địa phương thực hiện khoản dự chi năm 1946 trong khi chờ đợi ngân sách năm 1946 được duyệt y; Sắc lệnh 15 ngày 30-1-1946 v/v bãi bỏ thuế thổ trạch ở thôn quê kể từ ngày 01/01/1946; Sắc lệnh 79 ngày 29-5-1946 v/v giảm thuế điền thổ cho nhân dân các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên; Sắc lệnh 69 ngày 16-5-1946 v/v ấn định biểu thuế về thuế điền thổ trong toàn hạt Bắc bộ; Sắc lệnh 78 ngày 29-5-1946 v/v ấn định biểu thuế về thuế điền thổ ở Trung bộ .. Nhiều nghị định, lệnh quy định cụ thể các loại thuế cấp phép, đăng ký đất đai, trước bạ, thuế sát sinh, thuế xuất nhập khẩu...
(2). Trên lĩnh vực văn hóa - giáo dục: Mặc dù phải đối mặt với “ngoại địch, nội thù”, củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói; Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến chủ trương mở rộng giáo dục trên tinh thần “tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở các trường đại học, trung học, cải cách học tập theo tinh thần mới”.
Các nghị định trong lĩnh vực này chủ yếu liên quan đến xóa mù chữ (bước đầu nâng cao dân trí, chống mù chữ) và bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân; quy định về cơ cấu tổ chức các cơ quan ngành giáo dục, nguyên tắc dân chủ giáo dục, tạo cơ sở cho việc hình thành hệ thống nhà trường từ phổ thông đến đại học ở nước ta.
Đáng chú ý là ngày 8-9-1945, Nhà nước ra ba sắc lệnh (số 17, 19 và 20). Công cuộc chống nạn mù chữ chính thức được phát động khi nhà nước ban hành Sắc lệnh 17 v/v thiết lập bình dân học vụ để chăm lo việc học cho dân và trường đào tạo giáo viên đại học đầu tiên mang tên Hồ Chí Minh được mở tại Hà Nội; quy định việc xóa nạn mù chữ, mở cửa phổ cập giáo dục. Các lớp học được mở ở tất cả các địa phương và phải dùng bảng chữ cái quốc ngữ nên mọi người đều được đi học miễn phí.
Cùng với việc thực hiện chương trình phổ thông, xây dựng nền giáo dục tiến bộ, ổn định, các trường phổ thông, sư phạm, đại học đã được mở cửa trở lại. Đặc biệt, ngày 10-8-1946, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 146 quy định những nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục mới và Sắc lệnh số 147 tổ chức các cấp học cơ sở; khẳng định nguyên tắc, mục tiêu nhiệm vụ cơ bản của nền giáo dục mới: đại chúng hóa, dân tộc hóa, khoa học hóa, phục vụ Tổ quốc, dân tộc. Trong Nghị định 146, Chính phủ quy định ba nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục mới là đại chúng hóa, dân tộc hóa và khoa học hóa theo nguyên tắc phục vụ lý tưởng dân tộc và dân chủ.
Thực hiện chủ trương của Đảng và hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh, chính quyền các cấp đã tổ chức phong trào bình dân học vụ, tuyên truyền, vận động mọi người đi học, làm nếp sống mới. Được động viên, khích lệ, người dân đã hăng hái tham gia học tập văn hóa bằng nhiều hình thức thiết thực, cụ thể. Phong trào bình dân học vụ tập hợp lại, lan rộng, bén rễ ở các thôn, làng, trở thành một phong trào quần chúng thực sự với những hình thức tổ chức hết sức linh hoạt, thích ứng với điều kiện công tác.
Nhờ những nỗ lực đó, đến cuối năm 1946, hệ thống giáo dục phổ thông được thiết lập và hàng triệu người thoát nạn mù chữ đã biết đọc biết viết. Các phong trào thể dục thể thao cũng được hình thành và bước đầu hoạt động sôi nổi. Mặt trận Việt Minh còn phối hợp với các đoàn thể cứu quốc tổ chức tuyên truyền vận động nhân dân bài trừ các hủ tục lạc hậu còn sót lại của chế độ cũ. Các tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, nghiện hút, mê tín dị đoan, ăn xin, mại dâm, trộm cắp từng bước được đẩy lùi; Nhiều hủ tục lạc hậu về ma chay, cưới hỏi tốn kém cũng bị bãi bỏ.
Về văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo: Các văn bản pháp luật thời kỳ này đều khẳng định chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân và sự bảo đảm của Nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng tôn giáo.
Ví dụ: Sắc lệnh 35 ngày 20-9-1945 quy định mọi người phải tôn trọng đền chùa, lăng tẩm, nhà thờ, tất cả những nơi có tính chất tôn giáo; Sắc lệnh 65 ngày 23-11-1945 quy định nhiệm vụ và quyền lợi của Học viện Bảo tồn Cổ vật Bắc Việt và giao nhiệm vụ bảo tồn tất cả các di tích cổ trên toàn lãnh thổ Việt Nam; Không được phá đình, đình, chùa, miếu và các nơi thờ tự, cung điện, thành quách khác của làng chưa được bảo tồn. Không được hủy các bia ký, đồ vật, văn bằng, chìa khóa chủ, giấy tờ, sách vở có tính chất tôn giáo hoặc không có ích cho lịch sử nhưng chưa được bảo tồn.
5. Hệ thống sắc lệnh sửa đổi, bổ sung phù hợp với giai đoạn lịch sử và sự phát triển của đất nước
Sự ra đời của những sắc lệnh sửa đổi, bổ sung xuất phát từ yêu cầu đất nước trong những ngày đầu chính quyền mới chưa thể xây dựng ngay được một hệ thống pháp luật đầy đủ, nhưng quốc gia không thể một ngày không có pháp luật. Đồng thời, trong hoàn cảnh Nhà nước Việt Nam DCCH còn non trẻ chưa kịp khắc phục được những hậu quả nặng nề của chiến tranh lại phải chuẩn bị cho một cuộc chiến mới thì việc sửa đổi, bổ sung các điểu khoản nhằm quản lý nhà nước, xã hội được tốt hơn là cần thiết, phù hợp nhằm thực hiện phương châm “Nhà nước thực hiện quyền làm chủ của nhân dân phải là nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, sáng suốt”.
Không cầu toàn, thụ động hay hẹp hòi và trân trọng kế thừa những giá trị tốt đẹp trong kỷ cương xã hội mà ông cha ta đã bao đời xây dựng, ngày 10-10-1945, Chính phủ Việt nam (DCCH) lâm thời đã ban hành Sắc lệnh 47 v/v giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn quốc, tạm thời sử dụng một số luật lệ của chế độ cũ[10]. Năm 1946, Chính phủ tiếp tục ban hành các sắc lệnh nhằm sửa đổi các sắc lệnh cũ cho phù hợp với hoàn cảnh. Nhìn chung, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn quản lý trên các lĩnh vực, từ tháng 3-1946, hệ thống sắc lệnh sửa đổi, bổ sung ngày càng phát triển về số lượng văn bản.
Nội dung bài viết:
Bình luận