Khái quát về dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước
-Dân chủ là một phạm trù lịch sử xuất hiện cùng với sự xuất hiện của xã hội loài người, trong xã hội cộng sản nguyên thủy, hình thái kinh tế - xã hội đầu tiên của nhân loại, “dân chủ” xuất hiện với việc mọi thành viên trong cộng đồng đều có quyền lợi bình đẳng như nhau đối với của cải, vật chất; được phân chia đồng đều các chiến lợi phẩm từ săn bắn, hái lượm. Với ý nghĩa nguyên thủy đó, “dân chủ” trở thành một phương thức tồn tại, một nguyên tắc sống của xã hội cộng sản nguyên thủy. Mỗi cá nhân được bình đẳng về quyền lợi, được đối xử như nhau không có sự phân chia, không có đặc quyền, đặc lợi, quyền lực thuộc về mọi người.
-Cùng với sự phát triển của trình độ sản xuất, xã hội bắt đầu có sự phân chia giai cấp và hình thành nên hình thái nhà nước đầu tiên – nhà nước chiếm hữu nô lệ, quyền lực công, quyền lực chung của cộng đồng lúc này bị tha hóa và nằm trong tay giai cấp thống trị, “dân chủ” trên phạm vi toàn xã hội biến mất, bất bình đẳng xã hội xuất hiện, trải qua nhiều giai đoạn phát triển của lịch sử, với các hình thức nhà nước khác nhau, nhân dân liên tiếp đấu tranh giành lấy quyền dân chủ.
Về mặt học thuật, lần đầu tiên “dân chủ” được nhắc đến như một thuật ngữ chính trị và được biểu hiện dưới một chế độ chính trị là thời Hy Lạp cổ đại tại thành bang Athens, “dân chủ” tiếng anh là Democratic xuất phát từ tiếng Hy Lạp tức “là quyền lực nhân dân”, được thể hiện qua mô hình dân chủ Athens với việc nhân dân tham gia biểu quyết các vấn đề của nhà nước, các quyết định đưa ra trên cơ sở số đông. Ở phương Đông, Nho giáo nguyên thủy đã đưa ra tư tưởng: “Dân là quý, xã là chi, quân là trọng” (Dân là quý, sau mới là nước, cuối cùng là vua), đó là tư duy rất gần gũi. tư tưởng dân chủ, coi trọng vai trò, vị trí của nhân dân, đặt nhân dân là trung tâm của quyền lực chính trị. Tuy nhiên, tư duy này đã dần bị tha hóa và thay đổi để phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị.
-Theo Từ điển tiếng Anh Oxford, "dân chủ" cũng đề cập đến một hình thức chính phủ trong đó tất cả các thành viên tham gia vào việc ra quyết định về các vấn đề của họ, thường bằng cách bỏ phiếu để bầu ra một đại diện trong quốc hội hoặc tổ chức tương tự.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm Bản lĩnh chính trị (1953), Bác viết “Dân chủ là dân làm chủ”, trong đó chỉ rõ “ở nước ta, chính quyền là của dân và do dân làm chủ. .. Nhân dân là người nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra những người đại diện để thay mặt mình hành động. Đây chính là dân chủ". Như vậy, qua cách nhìn rất cô đọng về dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên hai nội dung quan trọng của "dân chủ". Một là, dân chủ tồn tại với tư cách là quyền của nhân dân, quyền làm chính quyền, làm chủ đất nước. nhà nước, làm chủ chế độ, lựa chọn và xây dựng cơ quan dân cử. Thứ hai, dân chủ là chế độ chính trị, hình thức nhà nước mà toàn dân tham gia xây dựng và vận hành nhà nước, nhà nước đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Giữa “dân chủ” và “nhân dân làm chủ” có nhiều nội dung giống nhau, thậm chí được sử dụng thay thế cho nhau, nhưng về nội dung cần làm rõ nội hàm của khái niệm “nhân dân làm chủ”. Từ này có cách sử dụng đúng của nó. Dân chủ là một khái niệm rất rộng, chỉ quyền công dân, thể chế chính trị và ý nghĩa văn hóa xã hội, dân chủ trong đời sống chính trị, dân chủ trong đời sống kinh doanh, dân chủ trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. “Quyền làm chủ của nhân dân” là một khái niệm rất cụ thể, nội hàm rất rõ ràng, quyền tài sản là quyền làm chủ đối với chính quyền nhà nước, quyền tham gia các công việc của nhà nước, quyết định những việc hệ trọng của đất nước, nhân dân làm chủ của mình. mệnh, làm chủ vận mệnh đất nước. “Quyền làm chủ của nhân dân” là khái niệm gắn liền với sự ra đời của nhà nước dân chủ nhân dân.
-Trong thời kỳ thực dân phong kiến, đế quốc, dân tộc ta không có quyền làm chủ, số phận và địa vị chính trị của dân là vô hiệu, dân là đối tượng bị thực dân, phong kiến áp bức, bóc lột, dân không có quyền lực chính trị, phải chịu một đời của nô lệ, quyền lực của nhà nước, chính quyền của nhà nước lúc này là chính quyền của giai cấp thống trị, chính quyền của số ít. Khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nhân dân thực sự có quyền làm chủ, trực tiếp xây dựng chính quyền các cấp, bầu ra những người đại diện cho quyền và lợi ích của mình, nhà nước là nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Quyền tự chủ của nhân dân tiếp tục được khẳng định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khoản 2 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là của nhân dân; Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Hiến pháp năm 2013 nhấn mạnh hai nội dung quan trọng: thứ nhất, Nhà nước ta là của nhân dân; Thứ hai, với việc ghi nhận tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Hiến pháp nhấn mạnh vị trí của nhân dân là những người nắm giữ quyền lực nhà nước. Hiện nay, cùng với việc mở rộng dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân không chỉ được nói đến trong lĩnh vực chính trị mà còn trong nhiều lĩnh vực khác, trong đó có quyền làm chủ của nhân dân gắn với hoạt động quản lý nhà nước của Nhà nước. Điều 28 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về những vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”. Như vậy, Hiến pháp 2013 - văn bản pháp lý cao nhất của Việt Nam đã nêu rõ công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Quyền làm chủ sự quản lý của Nhà nước của nhân dân được thực hiện thông qua các nội dung sau:
- Thứ nhất, nhân dân tham gia xây dựng chính quyền nhà nước thông qua dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
- Thứ hai, nhân dân tham gia xây dựng pháp luật, doanh nghiệp và chính sách của nhà nước.
- Thứ ba, nhân dân tham gia quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước.
- Thứ tư, nhân dân giám sát hoạt động quản lý nhà nước và phản biện xã hội. Việc phát huy quyền làm chủ của quần chúng nói chung, phát huy quyền làm chủ của quần chúng trong quản lý nhà nước nói riêng đã trở thành một nội dung bắt buộc, được thừa nhận và bảo đảm thực hiện, được quy định rõ ràng, nhất là trong các văn bản quy phạm pháp luật. Có thể nói, việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước vừa củng cố, vừa mở rộng quyền dân chủ của nhân dân, góp phần to lớn vào quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Các tài liệu tham khảo
- Aristotle (Nông Duy Trường dịch và chú thích, 2011), Chính trị học (The Politics), Nxb Thế giới, Hà Nội.
- Nguyễn Hữu Hải (2015), Quản lý học đại cương, NXB Chính trị
hành chính quốc gia, Hà Nội.
- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Khoa Triết học (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Nội dung bài viết:
Bình luận