
quyền dân chủ của công dân bao gồm
1. Dân chủ là gì?
Dân chủ là một hình thức tổ chức chính trị của xã hội trên cơ sở thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực và thừa nhận các nguyên tắc bình đẳng, tự do và nhân quyền.
1.1 Dân chủ - phạm trù lịch sử và phạm trù nhân văn
Dân chủ cũng áp dụng cho việc tổ chức và hoạt động của một số tổ chức và thể chế chính trị. Với tư cách là một hình thức tổ chức chính trị của nhà nước, dân chủ ra đời cùng với sự xuất hiện của nhà nước, vì vậy dân chủ là một phạm trù lịch sử, đồng thời là những biểu hiện khác của hình thái ý thức xã hội. chủ sở hữu do tồn tại xã hội, do phương thức sản xuất vật chất của xã hội quy định; và do đó, trình độ phương thức sản xuất khác nhau tất yếu dẫn đến sự khác nhau về trình độ dân chủ (mức độ thực hiện dân chủ và dân chủ hóa trong xã hội). Dân chủ không ngừng phát triển và lớn mạnh về chất và lượng ở mọi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài người.
Tuy nhiên, dân chủ với tư cách là một giá trị xã hội, là kết quả của những giá trị nhân văn, trước hết ra đời từ phương thức tổ chức sản xuất vật chất, từ sự hợp tác, cố kết cộng đồng giữa các dân tộc trong xã hội cộng sản nguyên thủy. Và như vậy, với ý nghĩa này, dân chủ sẽ tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của con người, là một trong những phương thức tồn tại của con người kể cả khi nhà nước đã biến mất.
1.2 Dân chủ - pháp luật bảo đảm
Khác với các hình thức thể chế nhà nước khác, trong thể chế dân chủ, quyền của đa số, quyền bình đẳng của mọi công dân và tính thượng tôn pháp luật được thừa nhận một cách chính thức; đồng thời, các cơ quan quyền lực phải được bầu bằng bầu cử. Ở đây, pháp luật được coi là nguyên tắc tối thượng của việc xây dựng thể chế, quản lý và điều hành xã hội, là nền tảng của trật tự xã hội, là quy phạm cưỡng chế điều chỉnh hành vi của các cá nhân và các quan hệ xã hội. Không tôn trọng nguyên tắc thượng tôn pháp luật thì sẽ không có dân chủ, hay nói đúng hơn là dân chủ không thể nảy sinh và tồn tại trên cơ sở một xã hội mà các quan hệ xã hội và hành vi của con người hầu như bị chi phối bởi các chuẩn mực đạo đức, tôn giáo, phong tục tập quán. . Những chuẩn mực như vậy chưa thể tạo thành cơ sở pháp lý cho sự xuất hiện của nền dân chủ. Do các cam kết, chuẩn mực mang tính chất chính trị, đạo đức, tín ngưỡng, tập quán chưa đủ mạnh và chưa bảo đảm việc thực hiện quyền tự do lựa chọn Nguyên thủ quốc gia, chức sắc tôn giáo hay quyền tự do luận tội,… cũng không có thể trao cho công dân quyền tự do ứng cử vào các cơ quan chính quyền nhà nước và địa phương để tham gia giám sát, chấp hành, điều hành và quản lý mọi hoạt động của xã hội và nhà nước.
Những điều này chỉ có thể đạt được từng bước theo trình độ phát triển của xã hội này, trong một xã hội mà sự gắn bó với quyền tự do của công dân này, cá nhân này phải được pháp luật thừa nhận và điều chỉnh, nghĩa là trong một xã hội nghiêm minh. do cơ sở tư pháp tổ chức.
2. Các hình thức dân chủ và mối quan hệ giữa chúng
2.1 Các hình thức dân chủ
Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện là hai hình thức biểu hiện của cùng thực thể dân chủ, cả hai hình thức này đều đóng một vai trò quan trọng bảo đảm cho việc thực hiện dân chủ, là hai hình thức không thể thiếu được của việc quản lý, điều hành, kiểm soát và thực thi quyền lực của nhân dân. Việc vận dụng chúng hoàn toàn phụ thuộc vào tình hình cụ thể.
2.2 Mối quan hệ giữa hình thức dân chủ đại diện và hình thức dân chủ trực tiếp
Giữa hai hình thức này có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại và chuyển hoá cho nhau. Để thực hiện được dân chủ đại diện thì phải cần đến dân chủ trực tiếp, chẳng hạn việc bầu cử lựa chọn ra các đại biểu Quốc hội hay đại biểu Hội đồng nhân dân, nghĩa là trước khi mỗi công dân chuyển giao quyền lực của mình cho người đại diện, những đại biểu dân cử và cho Nhà nước thì họ đã phải thực hiện dân chủ trực tiếp bằng cách:
Thứ nhất, tham gia vào hội nghị hiệp thương nhân dân để lựa chọn các ứng cử viên hoặc thông qua tiếp xúc trực tiếp với một hay một số ứng cử viên mà mình sẽ lựa chọn;
Thứ hai, thông qua việc bỏ phiếu kín, trên nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, công bằng, công khai và minh bạch, để lựa chọn cho mình một đại biểu ưu tú dựa trên ý chí quyết định của chính mình. Ngược lại, đến lượt mình, các đại biểu Quốc hội (nghị sĩ) khi thực hiện quyền lực của công dân (cử tri) giao cho thì lại cần phải dựa trên phương thức dân chủ trực tiếp, nghĩa là tham gia một cách trực tiếp và thể hiện ý chí của mình trong việc lập pháp cũng như các công việc quan trọng khác của Nhà nước.
Chế độ xã hội của nước ta dựa trên nền dân chủ đại diện, nhưng không có nghĩa đó là hình thức dân chủ duy nhất, bởi vì bản thân dân chủ đã luôn luôn bao chứa trong nó cả hai hình thái tồn tại và chỉ có như vậy thì dân chủ mới thực hiện theo đúng nghĩa đầy đủ của nó, mà cần phải thấy rằng chính hình thức dân chủ trực tiếp là nội dung, là cái quyết định đối với nền dân chủ đại diện này. Chỉ khi nào mức độ dân chủ trực tiếp được hiện thực hoá một cách đầy đủ, hiệu quả và sâu rộng thì đó chính là tiền đề quan trọng cho việc thực hiện tốt hình thức dân chủ đại diện và nền dân chủ đại diện.
Chẳng hạn, khi quyền làm chủ của nhân dân đã được uỷ thác cho những đại diện của mình là đại biểu Quốc hội thì đòi hỏi những đại biểu này cần thường xuyên lắng nghe và phản ánh về những vấn đề thiết yếu hàng ngày của người dân. Những cuộc tiếp xúc trực tiếp với các cử tri và xử lý kiến nghị của cử tri cũng chính là một hình thức của dân chủ trực tiếp giúp cho việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở cấp đại diện (Quốc hội) được bảo đảm hiệu quả hơn, phản ánh đúng và sâu sát với những bức xúc, trăn trở của nhân dân. Hơn nữa, do quyền lực của nhân dân được thực hiện thông qua người đại diện của mình (các đại biểu Quốc hội) nên đôi khi bị “khúc xạ” qua lăng kính tư cách và trách nhiệm của các đại biểu. Vì vậy, việc thực hiện dân chủ đại diện không thể tách rời dân chủ trực tiếp, bởi dân chủ trực tiếp là thước đo, tiêu chuẩn để kiểm tra, giám sát, đánh giá dân chủ gián tiếp. Ví dụ, trước khi một dự luật được Quốc hội thông qua hoặc một chính sách hoặc nghị định của chính phủ được ban hành, điều rất quan trọng là nó phải được gửi cho mọi người dân để lấy ý kiến, hoặc phải trưng cầu dân ý và đó là một hình thức dân chủ. . Hình thức này cần được coi là cơ sở để thực hiện dân chủ trực tiếp, đồng thời là cơ chế rất quan trọng để thực hiện quyền dân chủ của mọi công dân. Nghĩa là trưng cầu dân ý phải trở thành một nguyên tắc hiến định để thực hiện và kiểm soát quyền lực của nhân dân. Quy chế dân chủ ở cơ sở là rất quan trọng và cần thiết để bảo đảm thực hiện quyền dân chủ của nhân dân thông qua dân chủ trực tiếp, nhưng vẫn chưa đủ, cần phải xây dựng dự án luật về dân chủ bằng trưng cầu ý dân. Chỉ có như vậy, pháp luật và hoạch định chính sách mới tránh được những bất cập, thiếu khả thi và thiếu hiệu quả thực sự.
3. Nguyên tắc bảo đảm thực hiện dân chủ là gì?
Nguyên tắc cơ bản để thực hiện và bảo đảm dân chủ là “dân biết, dân nói, dân làm, dân kiểm tra”. Từ mục tiêu đó, cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ chế cần thiết để thực hiện mục tiêu này. Nói chung, các biện pháp này tạo ra một cơ chế hiệu quả và duy nhất để bảo đảm và thực thi các quyền dân chủ rộng rãi trong xã hội. Chẳng hạn, nếu người dân không biết, không được tham gia vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật và công việc của nhà nước, tức là người dân chưa được bảo đảm các quyền chính trị của mình. Người ta không "biết" thì người ta không "bàn" được, và do đó sẽ không "làm" và không thể "kiểm tra" quy trình này, công việc này.
4. Quyền dân chủ là gì?
Quyền dân chủ là yêu cầu và nhu cầu nội tại của mỗi cá nhân, với tư cách là công dân, đối với các nguyên tắc và chuẩn mực pháp luật dân chủ trong một thể chế xã hội dân chủ nhằm đảm bảo sự tham gia và tham gia. Tham gia tự do, bình đẳng và đầy đủ vào công việc của Nhà nước và toàn bộ đời sống xã hội của con người.
Quyền dân chủ thực chất là sự đòi quyền bình đẳng về chính trị - xã hội của mỗi cá nhân đối với Nhà nước, bảo đảm cho cá nhân có năng lực hành động theo ý chí của mình, quyền tự quyết và làm chủ của mình mà không bị tổn hại cho những người khác, và do đó mang lại khả năng giải phóng hoàn toàn năng lượng của bản chất con người của cá nhân. Ph.Ăngghen khẳng định:
"Từ sự bình đẳng của tất cả mọi người với tư cách là con người, dẫn đến quyền bình đẳng về giá trị chính trị và xã hội cho tất cả mọi người, hoặc ít nhất là cho công dân của một quốc gia, hoặc cho mọi thành viên của xã hội".
Như vậy, quyền dân chủ trước hết là quyền con người; hơn nữa, nó đặc biệt nhấn mạnh đến các quyền chính trị như là khả năng và điều kiện tiên quyết để thực hiện đầy đủ các quyền cơ bản khác của con người. Bởi vì, sự giải phóng về chính trị là điều kiện tiên quyết đối với mọi sự giải phóng khác của con người, bình đẳng về chính trị là tiền đề của mọi sự bình đẳng.
Hay nói cách khác, các quyền về chính trị (tự do bầu cử, ứng cử, tự do ngôn luận, tự do lập hội, hội họp, tự do báo chí...), một mặt, là tiền đề cho việc hiện thực hoá các quyền khác, mặt khác, là sự phản ánh về mức độ giải phóng “năng lực bản chất người” của mỗi cá nhân. Nó chính là nội dung cốt lõi của quyền con người, nó khẳng định con người là “một nhân tính tự do”, “một nhân cách và văn hoá” và “chủ thể sáng tạo của lịch sử và của giới tự nhiên”. Chính vì vậy, các nhà kinh điển mácưxít đã đặc biệt nhấn mạnh đến các quyền về chính trị như là bản chất của quyền dân chủ:
“Vì thế, yêu sách khẩn cấp của công nhân và nhiệm vụ trước tiên để giai cấp công nhân có ảnh hưởng đến công việc của nhà nước là phải giành được tự do chính trị, nghĩa là tất cả mọi công dân đềuđược pháp luật đảm bảo cho họ trực tiếp tham gia việc quản lý nhà nước, tất cả mọi công dân đều được quyền tự do hội họp, bàn bạc công việc của mình, kinh qua các hội của mình và báo chí mà ảnh hưởng đến công việc của nhà nước. Giành lấy tự do chính trị trở thành “một việc làm khẩn cấp đối với công nhân” bởi vì không có tự do chính trị, không có và không thể có ảnh hưởng gì đến công việc của nhà nước và như vậy thì tất nhiên họ vẫn là một giai cấp không có quyền, bị lăng nhục và không được bày tỏ ý kiến của mình”. Quyền dân chủ cũng là một giá trị xã hội nhân văn đã được thể chế hóa trong hệ thống pháp luật của một nhà nước nhất định, gắn với một hệ thống chính trị nhất định dựa trên một trình độ phát triển kinh tế và văn hóa nhất định. Vì vậy, quyền dân chủ một mặt phản ánh sự tiến bộ của con người hướng tới tự do, bình đẳng, giải phóng toàn diện bản chất con người của mỗi cá nhân, mặt khác phản ánh sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. tiến bộ xã hội của đất nước này. Vì vậy, có thể nói: quyền dân chủ là những quyền và tự do cơ bản của con người trong một hệ thống xã hội dân chủ hay là yêu sách và nhu cầu chính đáng của các dân tộc về bình đẳng và bình đẳng về chính trị. Xã hội là môi trường và điều kiện cho sự tồn tại, phát triển và hoàn thiện văn hóa, nhân cách và bản chất con người tự do của mỗi cá nhân.
Nội dung bài viết:
Bình luận