Khái quát về quyền của công dân về cư trú

100601loai-tru-trach-nhiem-hinh-su-5

 quyền của công dân về cư trú

1. Khái quát về cư trú và quyền tự do cư trú 

 Cư trú và quyền tự do cư trú (TDCT) là một trong những vấn đề  quan trọng đối với mỗi cá nhân nói riêng và xã hội nói chung, bởi  mỗi cá nhân  cần có một không gian và nơi ở nhất định.  

 Từ điển Hán  Việt giải thích “cu” có nghĩa là ở lại, là động từ chỉ trạng thái dừng lại, ổn định  vị trí; “Trú” có nghĩa là ở, lưu lại, nhưng có nghĩa là đã xác định chỗ ở, chỗ ở, chỗ ở, chỗ ở thường xuyên. 

 Theo Đại từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ “cư trú” được hiểu là “ở, sinh sống ở một nơi nào đó”. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý, khái niệm cư trú là “ở lâu dài tại một nơi”…. 

 Hoạt động cư trú có lịch sử hình thành và phát triển gắn  với hoạt động quản lý nhà nước (như hộ khẩu, hộ tịch) với các hình thức thường trú, tạm trú, tạm vắng và gắn  với quyền tự do đi lại của con người.  Luật Cư trú  2020 định nghĩa: “Cư trú là việc công dân vào sinh sống thực tế ở nơi thuộc đơn vị hành chính cấp xã, đơn vị hành chính cấp huyện ở nơi không có đơn vị hành chính đó, đơn vị hành chính cấp xã (sau đây gọi chung là gọi tắt là đơn vị hành chính cấp xã)” 

 

 Như vậy, cư trú có thể hiểu  là việc con người thường xuyên sinh sống và làm việc ở một địa điểm nhất định, dưới một hình thức nhất định. 

  Để mỗi cá nhân được tự do lựa chọn nơi cư trú  theo những điều kiện, trình tự, thủ tục và hình thức nhất định, pháp luật quốc gia và  quốc tế đều có những quy định liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ của công dân. Trong pháp luật quốc gia, quyền sở hữu trí tuệ của cá nhân luôn gắn liền với quyền của công dân và được ghi nhận trong Hiến pháp và hệ thống  văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Trong pháp luật quốc tế, quyền sở hữu trí tuệ được  định nghĩa là  quyền con người được quy định trong các văn bản pháp luật quốc tế, được các quốc gia thành viên phê chuẩn và cam kết  thực hiện.  

 Như vậy, có thể xác định quyền TDCN là quyền của mỗi cá nhân  tự do lựa chọn nơi cư trú của mình theo  điều kiện, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.  

 2.Quyền tự do cư trú của công dân trong pháp luật quốc tế mà Việt Nam là thành viên 

 Với lịch sử hình thành lâu đời, quyền tự do đi lại và cư trú đã được quy định trong nhiều văn kiện, công ước của pháp luật quốc tế. Trong các văn bản này, quyền TDCT gắn liền với quyền tự do đi lại của công dân, cá nhân có quyền TDCT hợp pháp và lựa chọn nơi cư trú trên lãnh thổ của nước mà mình là công dân cũng như trên lãnh thổ nước ngoài; có quyền tự do đi lại trong lãnh thổ quốc gia mà mình cư trú, tự do đi ra khỏi bất kỳ nước nào kể cả nước mà mình là công dân hay nước ngoài và tự do trở về nước mình. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền TDCT luôn gắn với quyền đi lại của mỗi cá nhân trong một quốc gia (quyền của công dân) cũng như trong khu vực hoặc trên thế giới. Điều đó nghĩa là công dân (hoặc cá nhân) có quyền tự do đi lại và cư trú trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài trở về nước. 

  Trong các văn bản pháp lý quốc tế mà Việt Nam là thành viên, như Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền năm 1948; Công ước quốc tế về Các quyền dân sự và chính trị năm 1966; Công ước quốc tế về Bảo vệ quyền của tất cả những người lao động di trú và thành viên gia đình họ năm 1990; Tuyên ngôn Nhân quyền ASEAN năm 2012; các cam kết về quyền TDCT của Việt Nam trong việc thành lập cộng đồng chung AEC… đều khẳng định quyền TDCT của công dân và là cơ sở để nội luật hoá trong pháp luật Việt Nam. Vì vậy, điều 13 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 đã khẳng định: “Mọi người đều có quyền tự do đi lại và cư trú trong phạm vi quyền tài phán quốc gia. Mọi người đều có quyền rời khỏi bất kỳ quốc gia nào, kể cả quốc gia của họ và trở về nhà. 

 Tinh thần này được tái khẳng định và  ghi nhận rõ hơn tại Điều 12 và 13 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Theo đó, quy định  này của pháp luật không chỉ  áp dụng đối với  công dân nước ngoài mà còn áp dụng đối với cả công dân nước ngoài  cư trú hoặc có mặt hợp pháp trên lãnh thổ  của một quốc gia khác. . . Việc tiếp nhận và tình trạng pháp lý của người nước ngoài trên lãnh thổ của một quốc gia phải tuân theo luật pháp  quốc gia và phù hợp với  nghĩa vụ quốc tế của quốc gia đó.  Đồng thời, Chương III của Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của tất cả  người lao động di cư và thành viên gia đình họ năm 1990 (được thông qua theo nghị quyết A/RES/45/158 ngày 18 tháng 12 năm 1990 của Đại hội đồng Liên hiệp quốc Quốc hội) quy định nhiều quyền  liên quan đến người lao động di cư. Như vậy, Điều 8 quy định rõ: “Người lao động di cư và các thành viên gia đình họ được tự do rời khỏi bất kỳ quốc gia nào, kể cả quốc gia gốc của họ. Quyền này chỉ có thể bị giới hạn trong phạm vi luật pháp quy định  và cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe và đạo đức cộng đồng, các quyền và tự do của người khác, và phù hợp với các quyền khác được công nhận trong phần này của Cam kết; Người lao động di cư và các thành viên gia đình của họ có quyền trở lại hoặc ở lại quốc gia xuất xứ của họ bất cứ lúc nào. 

 3. Quyền tự do cư trú của công dân theo pháp luật Việt Nam 

 Ở Việt Nam,  luật  cư trú cũng  ra đời từ rất sớm, trước năm 1945 nhà nước phong kiến ​​đã có những quy định chặt chẽ về cư trú của cá nhân dưới nhiều hình thức khác nhau. Thời Trần (1226 - 1400),  từ năm Canh Tý, niên hiệu Kiến Trung, đời vua Trần Thái Tông (1228)  quy định  hình thức quản lý dân cư theo hộ khẩu; hình thức Đại điển - Đại điển (sổ hộ có lệ ba năm - sáu năm một lần) của các triều đại Hồ,  Lê,  Nguyễn.  

3.1.Quyền tự do cư trú của công dân trong  Hiến pháp 

 Sau  Cách mạng Tháng Tám thành công, các quyền dân sự của công dân  tiếp tục được ghi nhận trong bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946: “Công dân Việt Nam có quyền cư trú, tự do  đi lại trong nước và ngoài nước” (đoạn 10). Quy định này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng  bảo đảm các quyền dân sự của công dân và tiếp tục được khẳng định trong Hiến pháp năm 1959: “Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quyền tự do đi lại và cư trú”. 

 Căn cứ quy định của Hiến pháp, văn bản  pháp luật đầu tiên ở nước ta quy định cụ thể lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ khẩu là Nghị định số 104/CP của Chính phủ ban hành Điều lệ đăng ký. 27, 1964, gồm 21 điều. Những quy định này tiếp tục được hoàn thiện bởi Nghị định số 32/CP ngày 29 tháng 2 năm 1968 của Chính phủ  về việc thống nhất quản lý hộ khẩu, hộ tịch và thống kê nhân khẩu nhằm hoàn thiện và tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch ở nước ta. , đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của đất nước trong thời kỳ này.  

 Phát huy tinh thần này, Hiến pháp năm 1980 quy định: “Quyền tự do đi lại, tự do cư trú của công dân được tôn trọng theo quy định của pháp luật”. Tinh thần này được đổi mới và củng cố trong Hiến pháp năm 1992: “Công dân có quyền tự do đi lại, cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật (Điều 68). 

 Các quy định này là cơ sở pháp lý quan trọng để Quốc hội ban hành Luật Cư trú năm 2006 và để các cơ quan hữu quan ban hành nhiều văn bản dưới luật  quy định chi tiết và hướng dẫn áp dụng thống nhất Luật Cư trú. , tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền công dân theo nhu cầu, nguyện vọng  chính đáng. 

 Đặc biệt, để tăng cường hơn nữa các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền có công, Hiến pháp  2013 quy định: “Công dân có quyền đi lại, cư trú tự do  trong nước, có quyền ra nước ngoài và ra nước ngoài. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” (điều 23) và “Quyền con người, quyền của công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh gia đình, xã hội và an toàn. đạo đức xã hội và sức khỏe của cộng đồng” (khoản 2 Điều 14). 

 Như vậy, chứng tỏ quyền dân sự của công dân luôn được thống nhất và từng bước hoàn thiện  trong hệ thống pháp luật, được nhà nước tôn trọng, ban hành cơ chế pháp lý để công dân thực hiện quyền dân sự của mình. Đặc biệt, Hiến pháp  2013 thể hiện tính toàn diện của pháp luật khi Nhà nước chỉ hạn chế các quyền này trong những trường hợp cần thiết và trên cơ sở  quy định của luật (so với  quy định của luật trước đây). 

 3.2.Quyền tự do cư trú của công dân trong BLDS 

 Căn cứ quy định của Hiến pháp, các Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005 và 2015 đều có  quy định  nơi cư trú của cá nhân là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền dân sự của công dân. Cụ thể, tại BLDS 2015, nơi cư trú (Điều 40) quy định rõ nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên cư trú; Trường hợp không xác định được nơi cư trú của cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều 40 thì nơi cư trú của cá nhân là nơi cá nhân đó hiện đang sinh sống. Ngoài ra, từ Điều 42 đến Điều 45 còn quy định cụ thể về nơi cư trú của người chưa thành niên; nơi cư trú của dịch vụ; nơi cư trú của vợ, chồng;  trú quân; nơi cư trú của người lao động đi công tác... Các quy định này là cơ sở để xác định nơi cư trú của cá nhân, bảo vệ quyền dân sự của công dân, đồng thời là cơ sở để thực hiện các biện pháp quản lý nhà ở. 3.3.Quyền tự do cư trú của công dân trong luật cư trú 

 Luật Cư trú năm 2006 (sửa đổi, bổ sung  năm 2013) là  luật chuyên ngành đầu tiên quy định trực tiếp các vấn đề liên quan đến quyền dân sự của công dân, trong đó quy định  quyền tự do cư trú của công dân trên lãnh thổ nước CHXHCN. từ Việt nam; trình tự, thủ tục đăng ký, quản lý lưu trú; quyền và trách nhiệm của công dân, hộ gia đình, cơ quan, tổ chức về đăng ký, quản lý cư trú. 

  Luật cư trú  2006 xác định công dân có quyền cư trú tự do  theo quy định của Luật cư trú và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Công dân có đủ điều kiện đăng ký thường trú, tạm trú  có thể nộp đơn đến cơ quan nhà nước hữu quan để đăng ký thường trú, tạm trú. Quyền tự do cư trú của công dân chỉ bị hạn chế khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. 

  Có thể nói, Luật Cư trú năm 2006 ra đời đã kịp thời cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) là sự kế thừa và phát triển của các quy định về quyền sở hữu trí tuệ của công dân trong  pháp luật Việt Nam. không gian. hệ thống. Với những quy định tiến bộ của Luật Cư trú và các văn bản hướng dẫn thi hành đã đáp ứng  nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của công dân về cư trú, đi lại  và yêu cầu quản lý nhà nước về cư trú trong điều kiện của đất nước. quá trình [6].  

 Tuy nhiên, Luật Cư trú  2006 vẫn còn một số hạn chế  như: Chưa thể luật hóa các quy định của Hiến pháp 2013 về các quyền dân sự của công dân;  một số quy định chưa tương thích với các văn bản quy phạm pháp luật khác, gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật về cư trú trên thực tế. 

 

 Vì những lý do trên, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và của quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng sâu rộng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, ngày 13 tháng 11 năm 2020, Luật tổ chức, cá nhân năm 2020 được ban hành. cư trú đã được Quốc hội khóa 14 thông qua với nhiều điểm mới nhằm bảo vệ  hiệu quả hơn các quyền dân sự của công dân cũng như tạo cơ sở để  quản lý cư trú  hiệu quả hơn. 

  Theo đó, Luật cư trú  2020 quy định  việc thực hiện các quyền dân sự của công dân Việt Nam trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;  đăng ký, quản lý cư trú; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân, cơ quan, tổ chức về đăng ký, quản lý cư trú.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo