Quyền chủ thể là gì?

Đây là môn gì? Chủ thể của quan hệ pháp luật là gì? Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự theo BLDS  2015? Tư cách chủ thể của cá nhân khi tham gia giao dịch dân sự? Nguyên tắc xác định năng lực pháp luật của pháp nhân nước ngoài?  Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự theo quy định của BLDS 2015 bao gồm: thể nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Năng lực pháp luật của mỗi pháp nhân này cũng  được Bộ luật dân sự năm 2015 quy định khá chi tiết.  

Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là bất khả xâm phạm - Tin nổi bật - Việt Giải  Trí

Quyền chủ thể là gì?

1. Đây là môn gì?

 Chủ thể là những cá nhân, tổ chức  tồn tại trong thế giới vật chất 

 

 2. Chủ thể của quan hệ pháp luật là gì? 

 Chủ thể của quan hệ pháp luật là cá nhân, tổ chức có đủ năng lực, quyền và nghĩa vụ pháp lý theo quy định của pháp luật. 

  Điều 1 BLDS về nhiệm vụ và phạm vi điều chỉnh của BLDS quy định về khách thể của quan hệ pháp luật dân sự: “BLDS quy định địa vị pháp lý và các quy phạm pháp luật dân sự, hành vi của các thể nhân, tinh thần và các chủ thể khác “. Như vậy, theo quy định này thì chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự bao gồm thể nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. 

  3. Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự: 

 3.1. Cá nhân: 

 Là chủ thể  tham gia chính trong quan hệ pháp luật dân sự và thường xuyên tham gia  bao gồm: Công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không  quốc tịch đang sinh sống tại Việt Nam theo quy định tại Chương III Bộ luật Dân sự. Để trở thành chủ thể, cá nhân phải đáp ứng các điều kiện về năng lực dân sự đầy đủ  (Điều 14): “1. Năng lực  dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có các quyền  và nghĩa vụ công dân. 2. Mọi cá nhân đều có năng lực hành vi dân sự như nhau. 

  1. Năng lực hành vi dân sự của một người bắt đầu từ khi  sinh ra và chấm dứt khi chết. và năng lực hành vi dân sự (điều 17) “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực thi quyền, nghĩa vụ dân sự.” Năng lực hành vi dân sự của một cá nhân chỉ có được khi đến một độ tuổi nhất định: 

 

 

 – Đủ năng lực hành vi dân sự: Theo quy định tại điều 19, một người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự  khi đủ 18 tuổi trở lên nhưng không  mắc bệnh tâm thần, bệnh khác (điều 22) hoặc tình trạng nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác (mục 23).  

 – Năng lực hành vi một phần: Điều 20 quy định Năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác, trường hợp có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.  

 -Không có năng lực hành vi dân sự : là người chưa đủ 6 tuổi theo quy định Điều 21 

 

 – Mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định Điều 22 và Điều 23 

 

 3.2. Pháp nhân: 

 Cơ quan, tổ chức, chủ thể khác tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập có các kiện quy định tại Điều 84 về Pháp nhân: Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ 4 điều kiện sau đây: 

 

 – Thứ nhất, là được thành lập hợp pháp: thành lập theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định; 

 

 – Thứ hai, là có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; 

 

 – Thứ ba, là có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó: pháp nhân phải có tài sản riêng không phụ thuộc và bị chi phối bởi bất kì chủ thể tham gia quan hệ pháp luật nào khác, trên cơ sở tài sản riêng đó pháp nhân phải chịu trách nhiệm, thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình 

 

 – Thứ tư, là nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập: vì tham gia vào quan hệ pháp luật một cách độc lập nên pháp nhân sẽ được hưởng các quyền và gánh vác các nghĩa vụ dân sự phù hợp với pháp nhân nên pháp nhân phải nhân danh chính mình. 

  3.3. Hộ gia đình, tổ hợp tác: 

 Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự là hộ gia đình 

 

 Điều 106 quy định: “Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này.” 

 

 Để có tư cách chủ thể hộ gia đinh phải xác định được các thành viên của hộ. Chỉ những hộ gia đình đáp ứng đủ các điều kiện sau mới trở thành chủ thể của quan hệ dân sự: 

 

 – Các thành viên trong hộ gia đình có tài sản chung; 

 

 – Cùng đóng góp công sức hoạt động kinh tế chung; 

 

 – Phạm vi những loại việc dân sự mà hộ gia đình tham gia chỉ giới hạn trong một số lĩnh vực do pháp luật quy định. Thời điểm bắt đầu và kết thúc tình trạng chủ thể hộ gia đình là không xác định. Tính chủ thể của hộ gia đình do mục đích giao dịch và địa bàn giao dịch quyết định. 

 

 Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là Tổ hợp tác 

 

  Điều 111 quy định: “1. Tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn của  ba người trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để hoàn thành nhiệm vụ quan trọng nhất. định, cùng có lợi, đồng trách nhiệm là chủ thể trong  quan hệ dân sự. 

 

 Tư cách tổ hợp tác được  thành lập khi có hợp đồng hợp tác và  đăng ký với Uỷ ban nhân dân cấp xã.  

 Trên đây là các loại chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự theo quy định mới nhất của Bộ luật Dân sự 2015. Việc xác định chủ thể của sự việc là vô cùng quan trọng vì nó sẽ ảnh hưởng đến việc sự việc đó có thuộc phạm vi điều chỉnh của  luật dân sự hay không. Từ đó nhận diện rõ các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề này! 

 

 4. Tư cách chủ thể của thể nhân khi tham gia giao dịch dân sự: 

 Tư cách thể nhân khi tham gia hành vi dân sự được hiểu là phẩm chất chủ thể của cá nhân này, tùy từng trường hợp mà BLDS 2015 sẽ có những quy định về người không có quyền tham gia hành vi dân sự cụ thể đối với các dịch vụ công cộng. 

 Năng lực chủ thể của cá nhân bao gồm năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân sự. Trong đó, năng lực pháp luật là quyền hành vi của chủ thể được công nhận và cho phép thực hiện. Năng lực hành vi là  năng lực tự có của chủ thể để thực hiện, điều khiển và làm chủ hành vi của mình.  Bộ luật Dân sự 2015 quy định  năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự như sau: 

 

 Điều 14. Năng lực  dân sự của thể nhân 

 

  1. Năng lực  dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có các quyền dân sự, nghĩa vụ dân sự. 

 

 Mục 17. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân 

 

 Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân thông qua hành vi của mình xác lập, thực thi quyền, nghĩa vụ dân sự. 

  Chủ thể giao dịch dân sự bao gồm nhiều loại cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình, v.v. Mặt khác, thuật ngữ “cá nhân” bao gồm cả công dân Việt Nam và người nước ngoài. Như vậy, chúng ta có thể hiểu năng lực dân sự của cá nhân là tập hợp các quyền mà  Nhà nước đã pháp luật công nhận cho công dân của mình. Theo quy định tại Điều 18 BLDS 2015 thì năng lực dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp  pháp luật có quy định. Vì vậy, mọi thể nhân đều được coi là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ khi tham gia giao dịch,  trừ  trường hợp người này đã bị pháp luật hạn chế một quyền nhất định là đối tượng của giao dịch mà không có ai tham gia. Vì vậy,  chỉ cần xem xét  năng lực hành vi của chủ thể là đủ để xác định  năng lực của chủ thể trong giao dịch dân sự. Năng lực hành vi dân sự cụ thể có thể được hiểu như sau: “năng lực” là điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện hoạt động nhất định, “hành vi” là sự biểu hiện ra bên ngoài của hành vi của một người trong một hoàn cảnh cụ thể. Vì vậy, năng lực hành vi là khả năng của cá nhân thực hiện hành vi và khả năng điều khiển, làm chủ các hành vi đó. Đồng thời, cũng có thể hiểu năng lực hành vi dân sự  là  tổng hòa của hai yếu tố: lý trí, lòng ham muốn và khả năng thực hiện, điều khiển hành vi. 

 

  Có thể nói, trong quá trình ban hành BLDS 2015, các nhà làm luật đã dựa vào các khía cạnh trên để xác định và ghi nhận các mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Bộ luật Dân sự 2015 căn cứ vào sự trưởng thành về thể chất và nhận thức của cá nhân để xác định cá nhân ở độ tuổi nào, mức độ nhận thức nào thì được công nhận là có năng lực hành vi  tương ứng. Theo quy định tại  Điều 20, 21, 22, 23, 24, 25 BLDS 2015, pháp luật đã công nhận năng lực hành vi dân sự của cá nhân ở các mức độ khác nhau. Trong mỗi cấp độ này, cá nhân có quyền xác lập giao dịch dân sự trong một phạm vi tương ứng. 

  – Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi: Điều 21 BLDS 2015 quy định: Đã thành niên có đầy đủ năng lực hành vi  dân sự, trừ trường hợp quy định tại Điều 24 và Điều 25 của Bộ luật này. Và người được công nhận là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ  được coi là có đủ năng lực  tự mình giao kết mọi giao dịch dân sự.  

 – Cá nhân có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ: Bao gồm các cá nhân từ đủ 16 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, có sự phát triển bình thường về nhận thức. Ở lứa tuổi này, họ là những người có nhận thức lí trí nhưng chưa đủ để có thể làm chủ, kiểm soát mọi hành vi của mình. Họ có thể nhận thức hành vi này nếu hành vi đó có tính chất và mức độ giản đơn nhưng lại không hề nhận thức được các hành vi khác nếu hành vi đó có tính chất mức độ phức tạp.  

 

 Vì thế luật chỉ thừa nhận họ có tư cách chủ thể để xác lập, thực hiện các giao dịch Dân sự nào nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của họ và có sự phù hợp giữa giao dịch đó với lứa tuổi của họ. Mặt khác, để đảm bảo nhu cầu chính đáng của các cá nhân ở mức độ năng lực hành vi này, luật còn cho phép họ xác lập các giao dịch khác nếu có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật hoặc tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch Dân sự nếu họ có đủ tài sản riêng để đảm bảo việc thực hiện các giao dịch Dân sự nếu họ có đủ tài sản riêng để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ ( Điều 22 Bộ luật dân sự 2015).  – Cá nhân không có năng lực hành vi dân sự: BLDS 2015 không quy định cấp độ này mà chỉ quy định  người không có năng lực hành vi  dân sự (Điều 23 BLDS 2015). Tuy nhiên, các cá nhân ở độ tuổi này là những người không thể, bằng  suy luận nhận thức, kiểm soát hành vi  của họ. Vì vậy, họ là người không có năng lực  tham gia  giao dịch dân sự. Các giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu của những người này  phải do người đại diện theo pháp luật của họ xác lập, thực hiện. 

 

 - Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự: Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự  là người đã thành niên lần đầu có đầy đủ năng lực hành vi dân sự  nhưng thuộc trường hợp quy định tại điều 2 của  luật dân sự 2015 đã quy định. Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, pháp luật quy định Tòa án có quyền tuyên bố hạn chế năng lực hành vi của  người lâm vào tình trạng “lệ thuộc ma túy hoặc  chất kích thích khác dẫn đến hủy hoại tài sản của gia đình” theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan.  Kể từ thời điểm quyết định của Tòa án tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự  có hiệu lực pháp luật cho đến khi quyết định này bị hủy bỏ thì người đó không được tự mình xác lập, thực hiện  giao dịch. Họ chỉ được coi là  đủ khả năng ổn định cuộc sống, thực hiện các giao dịch nhỏ để đáp ứng nhu cầu  hàng ngày của chính họ. Họ muốn tham gia các giao dịch khác khi được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của họ.  

 – Cá nhân không có năng lực hành vi dân sự: Là người tham gia giao dịch không thể nhận thức, suy luận, làm chủ, điều khiển được hành vi  của mình. Thuộc đối tượng này  không có người bị mất khả năng nhận thức từ khi chưa thành niên và  người đã đến tuổi thành niên nhưng bị tòa án tuyên phạt mất năng lực hành vi hành vi trong các vấn đề của bộ luật dân sự theo quy định tại điều 25 của Bộ luật Dân sự. Bộ luật Dân sự. năm 2015. Những người này được coi là hoàn toàn không có năng lực hành vi nên  không tự mình xác lập, thực hiện bất kỳ giao dịch dân sự nào. Mọi hoạt động dân sự đáp ứng  nhu cầu của họ đều phải do người đại diện theo pháp luật của họ xác lập và tiến hành. 

 Tóm lại, năng lực chủ thể là điều kiện bắt buộc của cá nhân khi tham gia  các giao dịch dân sự trong đời sống xã hội. Do đó, người bị hạn chế năng lực pháp luật  hoặc người không có năng lực pháp luật dân sự sẽ không được tham gia các giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật. . Điều này cũng giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia giao dịch dân sự.  

 

 

 5. Nguyên tắc xác định năng lực pháp luật của các chủ thể nước ngoài: 

 Đối với năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự của cá nhân nước ngoài: 

 

 – Anh: xác định theo luật nơi cư trú của người đó và nếu là vụ án về thương mại thì theo luật nơi kí kết hợp đồng.  

 – Đức: năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà họ là công dân 

 

 – Việt Nam theo Bộ luật tố tụng dân sự, năng lực hành vi tố tụng dân sự của cá nhân nước ngoài được xác định như sau: 

 

 Theo pháp luật nước mà người đó có quốc tịch, trong trường hợp công dân có quốc tịch nước ngoài và quốc tịch Việt Nam thì pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng. Nếu người đó có nhiều quốc tịch của nhiều nước ngoài khác nhau thì theo pháp luật của nước công dân đang sống.Theo pháp luật Việt Nam nếu công dân nước ngoài cư trú, làm ăn sinh sống lâu dài ở Việt Nam; 

 

 Theo pháp luật của nước mà người không quốc tịch cư trú, làm ăn sinh sống lâu dài; 

 

 Theo pháp luật Việt Nam nếu hành vi tố tụng được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam. 

  Như vậy theo pháp luật Việt Nam năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng dân sự của cá nhân nước ngoài được xác định dựa vào 3 yếu tố: quốc tịch của cá nhân, nơi cư trú hoặc nơi thực hiện hành vi.  

 Năng lực pháp luật tổ tụng dân sự của tổ chức quốc tế được xác định theo: 

 

 – Điều ước quốc tế là căn cứ để thành lập tổ chức; 

 

 – Quy chế hoạt động của tổ chức; 

 

 – Điều ước quốc tế đã được kí kết với cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo