Tố tụng hình sự là gì? Các giai đoạn của tố tụng hình sự ở Việt Nam là gì? Tiếp nhận, xử lý tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, đến giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
Các quan hệ xã hội phát sinh từ hoạt động tố tụng giữa cơ quan, người tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng được Bộ luật tố tụng hình sự điều chỉnh trực tiếp, trong đó quy định về quyền, nghĩa vụ của các cơ quan của các bên tham gia tố tụng.1. Tố tụng hình sự là gì?
Tố tụng hình sự là cách thức, trình tự tiến hành hoạt động của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cơ quan nhà nước khác và tổ chức xã hội góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Các giai đoạn của một vụ tố tụng hình sự bao gồm: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Quyết định của Toà án theo quy định của pháp luật tố tụng Quá trình giải quyết vụ án hình sự bao gồm những giai đoạn nhất định của pháp luật. Hình sự: ở mỗi giai đoạn, cơ quan và người quản lý sẽ phải đảm nhận những vị trí, vai trò khác nhau.2. Các giai đoạn tố tụng hình sự:
2.1. Tiếp nhận, xử lý nguồn tin về tội phạm và kiến nghị khởi tố:
Theo điều 144 Bộ luật tố tụng hình sự:
“Tố giác tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền.
Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân tố giác với cơ quan hữu quan hoặc thông tin về tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Trách nhiệm tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và yêu cầu khởi tố:
Bộ luật tố tụng hình sự quy định cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và các cơ quan khác có trách nhiệm tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm và đề nghị khởi tố. (Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự).
- Về thời hạn giải quyết tố cáo, tố cáo và đề nghị khởi tố (điều 147)
Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, yêu cầu khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan có trách nhiệm tiến hành một số hoạt động điều tra phải xem xét, xác minh và ra một trong các quyết định sau đây:
a) Quyết định khởi tố hình sự;
b) Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;
c) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và yêu cầu khởi tố.
trường hợp có nhiều tình tiết phức tạp thì có thể kéo dài hơn nhưng không quá 02 tháng. Nó có thể được gia hạn bởi Sàn gỗ một lần nữa, nhưng không quá 2 tháng.2.2. Khởi tố và điều tra:
Sau khi kết thúc thời hạn giải quyết tin báo, tố giác, cơ quan có thẩm quyền phải ra một trong các quyết định sau đây: khởi tố vụ án hình sự; không truy cứu vụ án; Tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và đề nghị khởi tố.
Điều tra là giai đoạn mà trong đó cơ quan điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và dưới sự kiểm sát của Viện kiểm sát tiến hành các biện pháp nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự
Giai đoạn này được bắt đầu từ khi cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình chỉ vụ án hình sự.
Về thời hạn điều tra quy định tại điều 172 BLTTHS:
“Không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.”
Các trường hợp gia hạn điều tra được quy định chi tiết trong điều 172 BLTTHS2.3. Truy tố:
Giai đoạn truy tố được bắt đầu từ khi Viện kiểm sát nhận được các tài liệu của vụ án hình sự (bao gồm cả kết luận điều tra và đề nghị truy tố) do Cơ quan điều tra chuyển đến và kết thúc bằng việc Viện kiểm sát ra một trong ba loại quyết định sau: Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng), trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án hình sự.
– Về thời hạn truy tố, điều 240 BLTTHS quy định:
Điều 240. Thời hạn quyết định việc truy tố
Trong thời hạn 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát phải ra một trong các quyết định:
a) Truy tố bị can trước Tòa án;
b) Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung;
c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với bị can.
Trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn thời hạn quyết định việc truy tố nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.2.4. Thử nghiệm VAHS:
- Phiên tòa sơ thẩm
Giai đoạn chuẩn bị xét xử (điều 276, 277 BLTTDS)
Ngay sau khi nhận được hồ sơ kèm theo cáo trạng, Tòa án phải thụ lý vụ án. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Toà án phải chỉ định Thẩm phán chủ toạ phiên toà giải quyết vụ án.
Thời hạn chuẩn bị xét xử là 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày thụ lý hồ sơ.
Đối với vụ án phức tạp, thời hạn xét xử có thể kéo dài đến 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Sau khi hoàn thành giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán ra một trong các quyết định: Đưa vụ án ra xét xử, chuyển vụ án để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ vụ án hoặc kết thúc vụ án.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà xét xử; trường hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì Tòa án có thể mở phiên xét xử trong thời hạn 30 ngày. * Thẩm quyền của toà án các cấp.
Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, trừ các tội phạm sau đây: Tội phạm phá hoại an ninh quốc gia; tội phạm chống hòa bình, tội phạm chống loài người và tội phạm chiến tranh; các tội quy định tại các điều 92, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322, 323 của Bộ luật hình sự.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự khu vực xét xử những vụ án hình sự không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự cấp khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà Tòa án đó đã xét xử sơ thẩm.
* Phiên tòa hình sự sơ thẩm gồm các giai đoạn.
Ở giai đoạn này, chủ tọa phiên tòa thực hiện các bước cần thiết trước khi xét hỏi như: kiểm tra sự có mặt của những người tham gia tố tụng, giải thích quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, xử lý yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, v.v.
giai đoạn đặt câu hỏi
Trước khi bắt đầu xét hỏi, Kiểm sát viên đọc cáo trạng, sau đó Hội đồng xét xử tiến hành xét hỏi để làm rõ các tình tiết của vụ án, trực tiếp xem xét chứng cứ, tài liệu tại phiên tòa. Khi thẩm vấn, thẩm phán hỏi trước, sau đó đến bồi thẩm đoàn, công tố viên và luật sư bào chữa. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có quyền yêu cầu xét hỏi bổ sung về những vấn đề chưa được làm rõ.
giai đoạn tranh luận
Mở đầu giai đoạn xét xử, Kiểm sát viên trình bày cáo trạng, sau đó người bào chữa (nếu có), bị cáo trình bày quyền bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ được trình bày thông báo để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Kiểm sát viên cần tham gia trả lời các câu hỏi về sự mâu thuẫn giữa lời luận tội của Kiểm sát viên với quan điểm xử lý vụ án với lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Trường hợp qua tranh luận mà phát hiện thêm những vấn đề chưa được làm rõ thì Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục xét hỏi và trở lại tranh luận sau khi xét hỏi xong. Kết thúc phần tranh luận, bị cáo được trình bày “lời sau cùng”.
Giai đoạn xét xử và tuyên án
Khi nghị án, chỉ những thành viên của phiên tòa (thẩm phán, hội thẩm) mới có quyền này. Hội đồng xét xử thảo luận và biểu quyết lần lượt về từng vấn đề của vụ án; Tất cả các thành viên của hội đồng xét xử phải trình bày ý kiến của mình về các vấn đề trong vụ án, hội thẩm phát biểu trước, thẩm phán phát biểu sau và là người biểu quyết cuối cùng. Bản án, quyết định của Hội đồng xét xử phải được đa số thành viên Hội đồng xét xử biểu quyết tán thành, những người có ý kiến thiểu số có quyền bảo lưu ý kiến của mình về biên bản; Việc nghị án phải được lập thành biên bản, bản án, quyết định của Hội đồng xét xử và biên bản nghị án phải được lập tại phòng nghị án.
Khi nghị án xong, Thư ký mời các bị cáo và những người tham gia tố tụng vào phòng xử án, sau đó Chủ tọa phiên tòa thay mặt thành phần xét xử đọc bản án, trường hợp bản án dài thì Thẩm phán, Hội thẩm đọc lần lượt. - Phiên phúc thẩm
Thời hạn kháng cáo (điều 333)
1. Thời hạn kháng cáo bản án sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo kể từ ngày họ nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
2. Thời hạn kháng cáo quyết định sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định. Thời hạn khiếu nại (điều 337)
1. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày, kể từ ngày Tòa án tuyên án.
2. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định.2.5. Thi hành án hình sự:
Giai đoạn tố tụng hình sự thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. 2.6. Giai đoạn tố tụng đặc biệt: bao gồm giám đốc thẩm, tái thẩm:
Giám đốc thẩm là một giai đoạn tố tụng hình sự trong đó Tòa án có thẩm quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật do phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án.
Tái thẩm là giai đoạn tố tụng hình sự mà Tòa án có thẩm quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật do có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà tại thời điểm ra bản án, quyết định, Tòa án không biết.
Nội dung bài viết:
Bình luận