Khi tiến hành xét xử vụ án, xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử tự mình hoặc theo đề nghị của người tham gia tố tụng yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trình bày ý kiến của mình để làm rõ những quyết định, hành vi tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố (Điều 317 Bộ luật TTHS). Trong phạm vi bài viết, tác giả muốn đề cập từ góc độ thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự về sự tham gia của Điều tra viên thuộc lực lượng Công an nhân dân tại phiên toà xét xử hình sự và một số kiến nghị, giải pháp để thực hiện tốt trách nhiệm của Điều tra viên khi được triệu tập đến phiên toà hình sự. Sau đây, ACC muốn gửi tới quý bạn đọc bài viết "Quy định về triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa" và một vài vấn đề pháp lý có liên quan:

1. Về sự cần thiết phải bổ sung chế định Toà án có thẩm quyền triệu tập Điều tra viên
Bộ luật TTHS quy định mô hình tố tụng hình sự Việt Nam là tố tụng thẩm vấn và đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, theo đó trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra; cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Cơ quan Viện kiểm sát và Cơ quan Toà án). Người bị buộc tội có quyền, nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Do đó, các tài liệu, chứng cứ được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên...) thu thập trong giai đoạn điều tra có trong hồ sơ vụ án là chứng cứ rất quan trọng, được coi là có giá trị chứng minh để Hội đồng xét xử đánh giá, xác định hành vi phạm tội của bị cáo. Chính vì vậy, để giúp Hội đồng xét xử ban hành Bản án hình sự được chính xác, khách quan, minh bạch, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người người vô tội, đảm bảo nguyên tắc tranh tụng, Điều 296, Bộ luật TTHS năm 2015 quy định khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể triệu tập Điều tra viên, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thụ lý, giải quyết vụ án và những người khác đến phiên tòa để trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án là hết sức cần thiết, quy định này đã giải quyết được những vướng mắc, khó khăn trong việc xem xét, đánh giá chứng cứ ở giai đoạn xét xử.
Qua thực tiễn xét xử nhiều vụ án hình sự do các Cơ quan điều tra thuộc Công an nhân dân tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ, trong giai đoạn xét xử nhiều Điều tra viên thụ lý vụ án đã được Toà án triệu tập đến phiên Toà để trình bày ý kiến để làm rõ những quyết định, hành vi tố tụng của mình đang điều tra vụ án. Như vụ án Hoàng Thị Vấn, bị truy tố, xét xử về tội giết người xảy ra ngày 5/2/2012 tại phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng, vụ án đã được đưa ra xét xử nhiều lần, đến các ngày 15 - 16/8/2018 khi đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, Hội đòng xét xử của Toà án nhân dân tỉnh Cao Bằng đã triệu tập Điều tra viên thụ lý vụ án đến để làm rõ một số nội dung; đến giai đoạn xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm tiếp tục triệu tập Điều tra viên, Kiểm sát viên thụ lý vụ án đến phiên toà. Vụ án Bùi Văn Thành trú tại xã Tam Đồng, huyện Mê Linh, Hà Nội cùng đồng phạm can tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác”. Ngày 10/8/2018 khi xét xử vụ án, Hội đồng xét xử vụ án của Toà án nhân dân huyện Mê Linh đã triệu tập Điều tra viên thụ lý vụ án đến làm rõ tính khách quan trong việc hỏi cung bị can. Kết quả xét xử các vụ án trên cho thấy, lời trình bày của các Điều tra viên tại phiên tòa có ý nghĩa rất quan trọng trong việc ban hành Bản án hình sự được minh bạch, khách quan, chính xác.
2. Những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện việc triệu tập Điều tra viên
Điều 296 Bộ luật TTHS quy định: Trong quá trình xét xử, khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể triệu tập Điều tra viên, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thụ lý, giải quyết vụ án và những người khác đến phiên tòa để trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án. Điều luật chưa quy định rõ thế nào là: “khi xét thấy cần thiết” thế nào là “có thể”. Quy định như vậy mang tính tuỳ nghi, dẫn đến không thống nhất về nhận thức, sẽ xảy ra trường hợp áp dụng điều luật theo ý chủ quan của Thẩm phán chủ toạ phiên toà. Nếu chỉ quy định Hội đồng xét xử mới có thẩm quyền triệu tập thì trường hợp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, thấy có một số nội dung cần thiết phải yêu cầu Điều tra viên nêu ý kiến để làm rõ, thì Thẩm phán phải chờ đến khi xét xử tại phiên toà, Hội đồng xét xử mới triệu tập Điều tra viên đến phiên toà.
Điều 317 Bộ luật TTHS quy định: Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử tự mình hoặc theo đề nghị của người tham gia tố tụng yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trình bày ý kiến để làm rõ những quyết định, hành vi tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố. Như vậy, tư cách tham gia tố tụng của những người này như thế nào, có phải là người chứng kiến hay không. Trong giai đoạn điều tra, truy tố thì Họ là những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, đặc biệt là Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm thông thường là người tiến hành tố tụng đã thụ lý, giải quyết vụ án trong các giai đoạn điều tra, truy tố, dẫn đến sự không thống nhất trong việc nhận thức vai trò, vị trí của những người đã tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử khi được triệu tập đến phiên tòa.
Cần có hướng dẫn cụ thể để có sự thống nhất nhận thức, tạo điều kiện cho Hội đồng xét xử áp dụng hiệu quả hai điều luật này.
3. Trường hợp nào để Toà án quyết định triệu tập Điều tra viên đã thụ lý vụ án đến phiên Toà
Mặc dù Bộ luật TTHS không quy định rõ trường hợp nào là cần thiết để triệu tập Điều tra viên đến phiên Toà. Tuy nhiên, qua thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự do Cơ quan điều tra thuộc lực lượng Công an nhân dân tiến hành điều tra cho thấy một số trường hợp sau đây được coi là cần thiết triệu tập Điều tra viên đã thụ lý điều tra vụ án đến phiên Toà để Hội đồng xét xử làm rõ những quyết định, hành vi tố tụng của họ:
Thứ nhất, kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án và xét hỏi tại phiên toà phản ánh quá trình điều tra, ban đầu bị cáo nhận tội, sau đó phản cung không khai nhận hành vi phạm tội và tại phiên toà bị cáo có khiếu nại hoặc tố cáo cho rằng Điều tra viên đã có những hành vi bức cung, mớm cung, dùng nhục hình buộc bị cáo phải khai theo theo ý chủ quan của Điều tra viên, các nội dung ghi nhận tội trong các biên bản hỏi cung bị can là do Điều tra viên ép phải khai, không khách quan, không phản ánh sự thật của vụ án. Trong phần xét hỏi, Hội đồng xét xử vẫn chưa làm rõ được.
Thứ hai, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án, bị cáo có đơn khiếu nại, tố cáo, phản ánh trong quá trình điều tra vụ án, Điều tra viên đã có hành vi bắt bị can ký khống các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, sau đó tự điền nội dung lời khai theo ý của Điều tra viên, dẫn đến nội dung lời khai của bị cáo không đúng với ý trí của bị cáo. Nhưng đến phần xét hỏi, vẫn chưa làm rõ được tính khách quan của lời tố cáo của bị cáo.
Thứ ba, tại phiên toà xét xử vụ án, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khác của bị cáo, người làm chứng, người bị hại và người liên quan có ý kiến cho rằng nội dung bản kết luận điều tra vụ án của Cơ quan điều tra là không có căn cứ, không khách quan, không đúng với bản chất nội dung vụ án và tố cáo Điều tra viên có những hành vi tố tụng trái pháp luật (Giả mạo các tài liệu, chứng cứ; tạo ra các tài liệu chứng cứ không có thật…) dẫn đến làm sai lệch hồ sơ vụ án, ảnh hưởng đến quyền của bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác đã đề nghị Hội đồng xét xử triệu tập Điều tra viên đến để làm rõ.
Thứ tư, trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử thấy có dấu hiệu xác định Điều tra viên đã thực hiện các hành vi tố tụng trái pháp luật (xử lý vật chứng không đúng quy định, có dấu hiệu sửa chữa nội dung các biên bản điều tra; việc thu thập tài liệu, chứng cứ vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo quy định của khoản 1, Điều 6, Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 của Liên ngành Tư pháp Trung ương, xét thấy cần thiết phải triệu tập Điều tra viên đến phiên toà để làm rõ.
Thứ năm, những người tham gia tố tụng khác (Người làm chứng; Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; Người chứng kiến…) có ý kiến cho rằng quá trình điều tra, Điều tra viên không đảm bảo quyền của họ khi tham gia tố tụng như từ chối yêu cầu bồi thường trách nhiệm dân sự; không phổ biến quyền và nghĩa vụ của họ khi được Cơ quan điều tra triệu tập đến làm việc…thấy cần thiết phải triệu tập Điều tra viên để làm rõ.
Thứ sáu, trong giai đoạn xét xử đối với vụ án, Hội đồng xét xử có nghi ngờ về tính khách quan của các tài liệu, chứng cứ chứng minh do Điều tra viên đã thu thập trong quá trình điều tra vụ án hình sự, cần thiết phải triệu tập Điều tra viên đến phiên toà để làm rõ.
Thứ bảy, trong quá trình xét xử đối với vụ án, theo yêu cầu của Kiểm sát viên giữ quyền công tố, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác nếu xét thấy cần thiết thì Hội đồng xét xử có thể triệu tập Điều tra viên thụ lý vụ án đến phiên tòa để trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án.
Trên đây là toàn bộ nội dung của chúng tôi về vấn đề Quy định về triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa, cũng như các vấn đề pháp lý có liên quan. Trong quá trình tìm hiểu nếu như quý bạn đọc còn thắc mắc và có nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn của ACC vui lòng liên hệ với chúng tôi bằng cách để lại bình luận hoặc liên hệ qua các thông tin dưới đây để được tư vấn và giải đáp một cách cụ thể nhất.
Nội dung bài viết:
Bình luận