
quy định về tống đạt
1. Tống đạt là gì?
Khi tham gia tố tụng, chúng tôi thường xuyên phải nhận văn bản từ cơ quan nhà nước. Ví dụ: Khi chúng ta là bị đơn trong một vụ án dân sự, chúng ta sẽ nhận được thông báo bằng văn bản của tòa án, trát đòi hầu tòa, v.v. Việc chuyển những lời biện hộ này cho các bên liên quan sẽ được gọi là tống đạt văn bản.
Tống đạt văn bản là việc cơ quan tiến hành tố tụng (như tòa án, viện kiểm sát) hoặc cơ quan thi hành án... giao văn bản cho đương sự một cách chính thức và mang tính áp đặt đối với các bên. được yêu cầu để biết tình trạng pháp lý của nó trong một trường hợp cụ thể. “Áp đặt” ở đây có nghĩa là người tiếp nhận văn bản được ký hiệu có trách nhiệm tiếp nhận nó (dù muốn hay không) một cách bắt buộc.
Tống đạt là việc chuyển giao văn bản nhưng chỉ áp dụng đối với đối tượng của việc bào chữa, việc tống đạt được hiểu là:
Bản án của tòa án;
Quyết định của tòa án;
Giấy triệu tập, giấy triệu tập, giấy triệu tập;
Giấy mời, Biên bản của Cơ quan thi hành án;
Quyết định, kết luận của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,...)
…
Như vậy, việc tống đạt văn bản tố tụng phải do những người có thẩm quyền như: Thẩm phán, Thư ký, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi anh ta cư trú, nhân viên bưu điện và đơn vị chuyển phát thực hiện.
Ví dụ: Tòa án nhân dân cử Thư ký tống đạt giấy triệu tập đến nhà anh A (là bị đơn trong vụ án) để anh A có mặt tại phiên tòa vào ngày 23/8/2020. Trong trường hợp này, anh A có nghĩa vụ đến dự phiên tòa.
Cũng do ý nghĩa quan trọng của việc tống đạt, pháp luật quy định người bị yêu cầu tống đạt thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm kỷ luật mà bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Ví dụ: Ông C là thư ký làm nhiệm vụ tống đạt quyết định triệu tập người làm chứng tham gia vụ án hình sự. Ông C thay vì phải trực tiếp đưa cho đương sự thì lại nhờ người khác làm hộ. Hậu quả là người làm chứng không nhận được giấy triệu tập và không tham gia phiên tòa. Phiên tòa nên được hoãn lại. Trong trường hợp này, ông C có thể phải chịu hình thức kỷ luật. Tống đạt (hay gọi đầy đủ hơn là “tống đạt văn bản tố tụng”) là việc cơ quan tiến hành tố tụng (tòa án, viện kiểm sát) hoặc cơ quan thi hành án... giao văn bản cho đương sự một cách chính thức và có tính cưỡng chế.
Đối với tống đạt qua đường bưu điện, Điều 173 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng:
Việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng được thực hiện theo thủ tục sau đây:
– Giao, tống đạt, thông báo trực tiếp, qua đường bưu điện hoặc thông qua bên thứ ba được ủy quyền giao, tống đạt, thông báo;
- Cấp, tống đạt, thông báo bằng phương tiện điện tử theo yêu cầu của đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử;
- Trưng bày công khai;
- Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
– Cấp phát, chuyển phát và thông báo bằng các hình thức khác theo quy định tại Chương XXXVIII của Bộ luật này.
Như vậy, do BLTTDS không quy định rõ ràng về trình tự, thủ tục phải tuân theo nên các Tòa án gặp nhiều khó khăn trên thực tế trong quá trình thực hiện. Hiện nay, việc tống đạt văn bản quy phạm pháp luật qua bưu điện có hai hình thức là tống đạt thông thường và tống đạt. Trong mỗi dạng lại chia làm hai cách, không có phản hồi và có phản hồi. Tuy nhiên, các văn bản chứng cứ chuyển giao giữa Tòa án và bưu điện không có nội dung cho phép Tòa án ghi số, ngày, tháng, năm cấp văn bản cũng như thời gian triệu tập, mời đương sự và những người có liên quan. tham gia các thủ tục khác và lại càng ít món đồ mà nhân viên bưu điện phải đích thân đến giao cho người được phục vụ.
Ngoài ra, tống đạt thường được chuyển qua nhiều dấu hiệu, do đó người trực tiếp đưa ra văn bản pháp lý không phải là người nhận văn bản từ viên chức tòa án ban đầu. Vì vậy, hồ sơ chỉ được chuyển đến địa chỉ mà tòa án đã xác định trên phong bì, còn việc người có tên trên phong bì có nhận được hay không, nhân viên bưu điện không quan tâm.
Vì vậy, nhiều trường hợp nhờ người khác nhận thay nhưng nhân viên bưu điện không nói rõ người nhận là ai, có quan hệ gì với người được phục vụ. Nhờ vậy, khi đến thời điểm mở phiên họp để xác minh việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, đối chất, xét xử… bảo đảm hiệu lực của quá trình tống đạt tại Tòa án.
2. Quy định của pháp luật liên quan đến việc thông báo văn bản tố tụng:
- Về hiệu lực của việc tống đạt văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 174 BLTTDS được coi là hợp lệ: “Việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng được thực hiện theo quy định của BLTTDS được coi là hợp lệ. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, do thiếu các quy định về kiểm soát việc chuyển giao cho người được phục vụ từ bên trung gian nên dễ xảy ra tình trạng bên trung gian không giao hoặc giao không đúng thời hạn cho người được phục vụ, dẫn đến tình trạng người được tống đạt không thể biết việc Toà án triệu tập mình tham gia tố tụng.
Theo Điều 172 BLTTDS, nhân viên của tổ chức dịch vụ bưu chính phát hành, ký, tống đạt văn bản tố tụng. Tuy nhiên, pháp luật không quy định cụ thể nghĩa vụ của họ trong việc nhận tống đạt văn bản quy phạm pháp luật.
- Quy trình thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng chưa phù hợp với thực tế. Điều 180 BLTTDS quy định về hình thức công bố trên phương tiện thông tin đại chúng, các trường hợp phải thực hiện hình thức công bố trên phương tiện thông tin đại chúng bao gồm:
Trong trường hợp pháp luật quy định hoặc có lý do để thấy rằng việc niêm yết công khai không đảm bảo rằng người được cấp, tống đạt hoặc thông báo nhận được thông tin về giấy tờ sẽ được cấp, tống đạt hoặc thông báo;
Nếu các bên khác yêu cầu.
Tuy nhiên, quy định này không khả thi và trên thực tế rất ít Tòa án áp dụng thủ tục thông báo trên phương tiện truyền thông. Do BLTTDS không quy định việc bỏ qua thủ tục thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng nên về nguyên tắc, tất cả các đơn tố cáo phải được tống đạt lần lượt qua các kênh khác nhau, từ trực tiếp đến trực tuyến hay thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Hơn nữa, về nghĩa vụ chịu chi phí quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng, theo khoản 2 Điều 180 BLTTDS, đương sự chỉ phải chịu chi phí quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng khi họ là người yêu cầu. Trong trường hợp họ không yêu cầu nhưng khi pháp luật có quy định hoặc có lý do xác định rằng việc trưng bày công khai không bảo đảm cho người tiếp nhận tiếp nhận thông tin về văn bản thì các bên liên quan không phải chịu trách nhiệm về phương tiện truyền thông. lệ phí trước bạ.
Trong trường hợp này, việc Tòa án có nộp lệ phí hay không và nếu Tòa án chấp nhận thì sẽ giải quyết ở đâu cũng là một trong những kẽ hở cần được hướng dẫn. Vì vậy, hầu hết các phiên tòa nhìn chung chỉ dừng lại ở mức độ công khai, thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng chỉ được thực hiện khi có yêu cầu của các bên liên quan.
Nội dung bài viết:
Bình luận