
Theo quy định tại khoản 1 Điều 60 Bộ luật Tố tụng hình sự thì bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Trường hợp bị can là pháp nhân thì quyền và nghĩa vụ của bị can sẽ được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Tại khoản 1 Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự thì bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Đồng thời, quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân.
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là một biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được quy định tại Điều 113 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Theo quy định tại Điều luật này thì có thể thấy:
1. Về đối tượng áp dụng:
Theo quy định tại Điều 113 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì có thể thấy đối tượng áp dụng của biện pháp này là bị can, bị cáo. Như vậy, có thể thấy đây là hai đối tượng đã bị khởi tố về hình sự (bị can) hoặc đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử (bị cáo). Các chủ thể không thuộc trường hợp trên thì không được coi là đối tượng áp dụng của biện pháp này.
2. Điều kiện áp dụng:
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 không quy định cụ thể về những trường hợp nào bị can, bị cáo có thể bị bắt để tạm giam. Tuy nhiên, dựa vào quy định tại khoản 1 Điều 119 của Bộ luật này thì có thể thấy các điều kiện để bắt bị can, bị cáo để tạm giam như sau:
Thứ nhất, đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng (khoản 1 Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự). Xuất phát từ mức độ nguy hiểm của tội phạm đối với xã hội đồng thời trong trường hợp này, người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội thường nhận thức rõ được trách nhiệm pháp lí mà họ phải gánh chịu là rất nặng nề nên tìm mọi cách để trốn tránh gây khó khăn cho việc giải quết vụ án nên việc bắt tạm giam những đối tượng này là rất cần thiết. Các bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự thường sẽ phải chịu hình phạt rất nghiêm khắc bởi sự nguy hiểm của các loại tội này là rất cao. Đặc biệt là những bị can, bị cáo phạm tội về ma túy, giết người, xâm phạm an ninh quốc gia hoặc là tái phạm, tái phạm nguy hiểm…
Thứ hai, đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng nhưng có hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng đối tượng thuộc một trong những trường hợp sau: (khoản 2 Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự)
– Bị can bị cáo đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
– Bị can không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
– Có hành vi bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
– Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
– Có hành vi cưỡng ép, mua chuộc, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; giả mạo, tiêu hủy chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; có hành vi khống chế, đe dọa hoặc trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
3. Căn cứ áp dụng:
Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định cụ thể trong điều luật các căn cứ để bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Tuy nhiên, bắt bị can, bị cáo để tạm giam là một biện pháp ngăn chặn cho nên khi bắt người cần phải thỏa mãn các quy định tại Điều 109 Bộ luật Tố tụng hình sự như sau:
Thứ nhất: Để kịp thời ngăn chặn tội phạm;
Thứ hai: Khi có căn cứ chứng tỏ rằng người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp tạm giam
4. Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
Thẩm quyền này được quy định tại khoản 1 Điều 113 Bộ luật Tố tụng hình sự như sau:
– Trong giai đoạn điều tra, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp quyết định. Trường hợp Cơ quan điều tra ra lệnh bắt thì lệnh này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Sự phê chuẩn của Viện kiểm sát là một thủ tục pháp lí bắt buộc nhằm kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của lệnh bắt để để đảm bảo hiệu lực của lệnh bắt người cũng như sự cần thiết phải bắt tạm giam bị can. Giúp hạn chế tình trạng lạm dụng quyền được áp dụng biện pháp ngăn chặn để tác động một cách trái pháp luật đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân vì những mục đích cá nhân.
– Trong giai đoạn truy tố, việc bắt bị can để tạm giam do Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp quyết định.
– Trong giai đoạn xét xử, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm, Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử quyết định.
5. Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 113 Bộ luật Tố tụng hình sự:
– Trước hết, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải có lệnh bắt của người có thẩm quyền; lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ kí của người ra lệnh và có đóng dấu cơ quan. Lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải đảm bảo yêu cầu pháp lí nêu trên mới có giá trị thi hành. Lệnh bắt người vi phạm thủ tục như bắt người theo lệnh miệng, lệnh bắt của người không có thẩm quyền, lệnh bắt không ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh,… hay không có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát thì không có hiệu lực thi hành.
– Trước khi bắt, người thi hành lệnh bắt phải đọc lệnh bắt và giải thích lệnh bắt, quyền và nghĩa vụ cho người bị bắt nghe. Người thi hành phải lập biên bản về việc bắt, giao lệnh, quyết định này cho người bị bắt.
– Khi bắt phải lập biên bản bắt người. Biên bản ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản.
– Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người khác chứng kiến. Ngoài ra, khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc, học tập phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập chứng kiến. Nếu bắt người tại nơi khác thì phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là một biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc, vì vậy khi tiến hành lệnh phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn hay đại diện cơ quan tổ chức nơi người bị bắt cư trú, làm việc. Đại diện chính quyền địa phương tham gia với tư cách là người quản lí về nhân hộ khẩu của người bị bắt trong địa bàn quản lí của mình. Gắn trách nhiệm của chính quyền địa phương với việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, đồng thời sự có mặt cuat chính quyền địa phương sẽ hỗ trợ giúp sức khi cần thiết để thực hành lệnh bắt người được thuận lợi. Sự có mặt của người láng giềng trong trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam tại nơi cư trú có ý nghĩa đảm bảo việc bắt người được công khai dân chủ, đồng thời tăng cường tính giáo dục tuyên truyền pháp luật.
Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam không mang tính chất cấp bách như bắt người trong trường hợp khẩn cấp, quả tang hay truy nã. Vì vây, để đảm bảo chính đáng quyền lợi của người bị bắt, của cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, tránh gây căng thẳng do việc bắt người gây ra tại khoản 3 Điều 113 Bộ luật Tố tụng sunh sự quy định: “không được bắt người vào ban đêm…”. Ban đêm được tính từ 22h tối hôm trước tới 6h sáng hôm sau, điều đó có nghĩa là chỉ có thể bắt bị can, bị cáo để tạm giam từ 6h sáng tới 22h đêm. Ngoài thời gian đó mà bị bắt là vi phạm thủ tục Tố tụng hình sự.
Nội dung bài viết:
Bình luận