Quy định điều kiện về tài sản đảm bảo trong doanh nghiệp

Tài sản bảo đảm phải là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo lãnh, được phép trao đổi, không có tranh chấp và tài sản thế chấp có thể là quyền sử dụng đất. Bảo đảm cũng có thể là tài sản thuộc sở hữu của người thứ ba hoặc quyền sử dụng đất của người thứ ba nếu bên nhận bảo đảm, bên nhận bảo đảm và bên thứ ba có thoả thuận. 

tài sản đảm bảo của doanh nghiệp

tài sản đảm bảo của doanh nghiệp

 

1. Khái niệm quản lý tài sản bảo đảm 

Mọi biện pháp bảo đảm đều nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nhằm thỏa mãn quyền của chủ nợ có bảo đảm. Đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà nghĩa vụ không được thực hiện hoặc bên bảo đảm không thực hiện nghĩa vụ bảo đảm khi đến hạn thì chủ nợ có bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm. Luật kinh doanh chứng khoán đã quy định nhiều phương thức khác nhau và cho phép chủ nợ có bảo đảm được quyền lựa chọn bất kỳ phương thức nào trong số này để xử lý tài sản như: Tự nhận chứng khoán để bù trừ nghĩa vụ; tự bán bảo hành cho bên thứ ba; yêu cầu đấu giá bất động sản. Như vậy, một cách khái quát nhất có thể đưa ra khái niệm chuyển nhượng bảo lãnh như sau: Xử lý tài sản bảo đảm là việc chủ nợ có bảo đảm thực hiện một trong các phương thức xử lý chứng khoán theo quy định của Bộ luật Dân sự và các văn bản giao dịch hợp pháp khác nhằm ứng trước lợi ích của mình trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm. 

2. Nguyên tắc quản lý tài sản thế chấp

 Pháp luật dân sự cho phép chủ nợ có bảo đảm được xử lý tài sản bảo đảm để bảo đảm lợi ích của mình, nhưng mặt khác, việc xử lý tài sản bảo đảm phải bảo đảm công bằng, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bên bảo đảm. Vì vậy, việc xử lý tài sản bảo đảm cần tuân thủ các nguyên tắc sau: 

- Chỉ được xử lý hàng hóa khi có một trong các căn cứ sau: 

Thứ nhất, khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên nợ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Theo nguyên tắc này, chủ nợ có bảo đảm chỉ được định đoạt tài sản của chủ nợ có bảo đảm nếu hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ này mà chủ nợ có bảo đảm không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng. Tuy nhiên, khi quản lý tài sản bảo đảm theo nguyên tắc này cần phân biệt giữa trường hợp bên bảo đảm là con nợ trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm và trường hợp bên bảo lãnh là bên thứ ba (không phải là con nợ trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm) để xác định thời hạn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay cho phù hợp với quy định của pháp luật. 

Thứ hai, con nợ phải thực hiện trước nghĩa vụ được bảo đảm do vi phạm nghĩa vụ đã thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Căn cứ này phát sinh trong trường hợp giao dịch bảo đảm được xác lập giữa các bên để bảo đảm thực hiện hợp đồng/và bên mắc nợ trong hợp đồng này vi phạm các thỏa thuận trong hợp đồng này. Theo đó, bên vi phạm (đồng thời là bên nhận bảo đảm) đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bên vi phạm phải thực hiện nghĩa vụ của mình trước thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng này. Ví dụ, trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng cho vay và khách hàng có thỏa thuận bên vay phải sử dụng vốn vay đúng mục đích là phát triển sản xuất, bên cho vay có quyền chấm dứt hợp đồng nếu bên vay sử dụng vốn trái mục đích đã thỏa thuận. Hợp đồng tín dụng này được đảm bảo bằng một tài sản thế chấp kèm theo. Bên cho vay phát hiện bên vay dùng tiền vay để mua sắm tiêu dùng nên đã ra thông báo chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Trong trường hợp này, hợp đồng tín dụng được coi là chấm dứt kể từ thời điểm bên vay nhận được thông báo của bên cho vay về việc chấm dứt hợp đồng tín dụng và bên vay phải trả nợ theo thời hạn do bên cho vay ấn định, theo đó bên vay phải trả nợ trước thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. 

Thứ ba, pháp luật quy định tài sản bảo đảm phải được giao để chủ nợ có bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ khác. Theo cơ sở này, trường hợp tài sản bảo đảm phải được chuyển nhượng để bên nhận bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ khác thì bên nhận bảo đảm được quyền ưu tiên trả nợ khoản vay từ số tiền chuyển nhượng tài sản bảo đảm theo nguyên tắc ưu tiên thanh toán trong xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về chứng khoán. 

- Chứng khoán sẽ được xử lý theo thỏa thuận của các bên. Trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì việc giao tài sản đó phải được thực hiện theo thỏa thuận giữa chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm (thỏa thuận này có thể được ghi trong hợp đồng bảo đảm và được các bên thỏa thuận trước khi giao tài sản); nếu không có thoả thuận thì tài sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì việc định đoạt tài sản đó phải theo thoả thuận của chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ liên đới và nhiều chủ nợ; nếu không có thỏa thuận hoặc không có thỏa thuận thì tài sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật.

 - Việc xử lý chứng khoán phải được thực hiện khách quan, công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch chứng khoán, của các cá nhân, tổ chức có liên quan. Nguyên tắc này buộc người chuyển nhượng tài sản đảm bảo tiền vay trước khi định đoạt tài sản để thực hiện các thủ tục một cách công khai. Trong trường hợp bên bảo đảm sử dụng nhiều tài sản khác nhau để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tiền vay thì khi quản lý quyền sở hữu tài sản bảo đảm tiền vay, bên nhận bảo đảm chỉ được quản lý số tài sản cần thiết tương ứng với giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm; nếu xếp quá số lượng hàng hóa cần thiết mà gây thiệt hại cho người bảo lãnh thì người bảo lãnh phải sửa chữa thiệt hại đó. 

3. Phương thức xử lý tài sản bảo đảm 

Theo quy định nêu trên của Luật giao dịch chứng khoán, bên cho vay có bảo đảm được quyền quản lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận; trường hợp không có thoả thuận thì tài sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thỏa thuận này có được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên và được xác định trong hợp đồng bảo đảm hay hợp đồng chuyển giao tài sản khi tài sản bảo đảm phải được xử lý theo pháp luật? Trên thực tế, khi giao kết hợp đồng bảo đảm, các bên thường thỏa thuận và xác định trong nội dung hợp đồng về phương thức quản lý tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, ngay cả khi có thỏa thuận thì cũng rất khó quản lý việc bảo lãnh nếu bên bảo lãnh thiếu thiện chí. Vì vậy, để có thể quản lý được tài sản, các bên thường phải thỏa thuận với nhau các vấn đề liên quan đến việc chuyển giao này như việc giao tài sản, thực hiện các thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản… Trong trường hợp này, nếu bên bảo đảm không có thiện chí làm việc với bên nhận bảo đảm để giải quyết các vấn đề liên quan này thì bên nhận bảo đảm khó có thể quản lý tài sản. Cần hiểu “thỏa thuận của các bên” là sự thỏa thuận giữa bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm được xác định trong hợp đồng bảo đảm. Như vậy, khi nghĩa vụ không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản theo đúng phương thức được các bên trong hợp đồng bảo đảm công nhận và bên bảo đảm có trách nhiệm thực hiện các vấn đề liên quan nêu trên. Nếu không thực hiện thì cơ quan nhà nước có liên quan (như cơ quan đăng ký tài sản) phải làm thủ tục xử lý tài sản bảo đảm theo yêu cầu của bên nhận bảo đảm kèm theo hồ sơ, giấy tờ hợp lệ. Bộ luật Dân sự quy định cụ thể về thủ tục quản lý chứng khoán: 

Một là bán tài sản thế chấp Chủ nợ có bảo đảm được quyền bán tài sản bảo đảm nếu phương thức này đã được thoả thuận trong hợp đồng bảo đảm. Theo đó, chủ nợ có bảo đảm có quyền bán tài sản bảo đảm cho bất kỳ bên thứ ba nào mà không cần được sự đồng ý của bên bảo đảm. Số tiền thu được do tự bán tài sản được dùng để trừ vào phần nghĩa vụ bị vi phạm. Khi xử lý bất động sản theo phương thức này, bên nhận bảo đảm giao kết với người thứ ba hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Trong đó, chủ nợ có bảo đảm là bên bán (bên chuyển nhượng), bên thứ ba là bên mua (bên nhận chuyển nhượng). Nếu hợp đồng có quy định về thủ tục đăng ký quyền sở hữu (quyền sử dụng) thì hợp đồng bảo đảm được ký kết giữa bên cho vay có bảo đảm và bên bảo lãnh là căn cứ để đăng ký quyền sở hữu (quyền sử dụng) cho bên mua (bên nhận chuyển nhượng). 

Thứ hai, nhận bảo lãnh Theo phương thức này, chủ nợ có bảo đảm nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế việc thực hiện nghĩa vụ của chủ nợ có bảo đảm. Theo quy định của pháp luật, phương thức này chỉ được thực hiện khi các bên đã có thỏa thuận. Và như vậy, nội dung của phương thức này hoàn toàn do các bên tự quyết định theo thỏa thuận. 

Thứ ba là nhận tiền hoặc tài sản khác từ bên thứ ba Trong trường hợp nghĩa vụ dân sự được bảo đảm bằng giả định về quyền đòi nợ mà bên nợ không thực hiện hoặc thực hiện không tốt nghĩa vụ thì bên nhận bảo đảm thông báo cho người thứ ba (là con nợ của bên nhận bảo đảm) về việc thu khoản nợ này. Việc thu hồi nợ phải được thực hiện theo thời gian và địa điểm quy định trong thông báo chuyển nhượng bảo lãnh. Chủ nợ có bảo đảm lập biên bản giao nhận tiền, tài sản giữa ngân hàng, bên bảo lãnh và bên thứ ba. Biên bản này có sự tham gia của ba bên là chủ nợ có bảo đảm, bên bảo lãnh và người thứ ba phải xác định rõ số tiền và hàng đã nhận, trình tự, phương thức giao nhận tiền và hàng, định giá hàng hóa và việc thanh toán các khoản nợ của việc định đoạt tài sản. Trường hợp bên thứ ba không trả lại số tiền hoặc tài sản nêu trên theo yêu cầu của chủ nợ có bảo đảm thì chủ nợ có bảo đảm có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các thủ tục buộc bên thứ ba trả lại tài sản hoặc khởi kiện ra tòa. 

Thứ tư, đấu giá bất động sản Trường hợp trong giao dịch tài sản bảo đảm, các bên có thỏa thuận về việc bên nhận bảo đảm có quyền bán đấu giá tài sản thì khi bên nhận bảo đảm không thực hiện được thì bên nhận bảo đảm có quyền ký hợp đồng bán đấu giá tài sản với cơ quan bán đấu giá tài sản. Trường hợp các bên không thoả thuận bán đấu giá thì chủ nợ có bảo đảm có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật

4. Thủ tục quản lý tài sản bảo đảm

 Việc xử lý tài sản bảo đảm được thực hiện theo trình tự sau: 

- Thông báo cho bên bảo lãnh về việc chuyển nhượng bảo lãnh Trước khi xử lý tài sản bảo đảm, bên nhận chuyển nhượng tài sản bảo đảm phải thông báo bằng văn bản cho bên nhận bảo đảm về việc xử lý tài sản bảo đảm và đăng ký thông báo yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch chứng khoán (đối với trường hợp giao dịch chứng khoán đã đăng ký). Văn bản này cần thể hiện rõ những nội dung chính sau: Lý Do Xử Lý Tài Sản Bảo Đảm; Giá trị trái phiếu được đảm bảo; Loại tài sản đảm bảo để xử lý; Thời gian, địa điểm chuyển giao tài sản bảo đảm. 

- Thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý Trong trường hợp tài sản bảo đảo đang do bên bảo đảm hoặc người thứ ba giữ thì bên xử lý tài sản thông báo bằng văn bản cho một trong những người này về việc yêu cầu chuyển giao tài sản bảo đảm. Nếu hết thời hạn ấn định trong thông báo mà bên giữ tài sản bảo đảm không giao tài sản thì bên xử lý tài sản có quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý hoặc yêu cầu tòa án giải quyết. Khi thực hiện việc thu giữ tài sản bảo đảm, bên xử lý tài sản có trách nhiệm: 

Trong trường hợp người giữ tài sản bảo đảm là người thứ ba thì bên bảo đảm có trách nhiệm phối hợp với người xử lý tài sản thực hiện việc thu giữ tài sản bảo đảm. Bên bảo đảm hoặc người thứ ba giữ tài sản bảo đảm phải chịu các chi phí hợp lý, cần thiết cho việc thu giữ tài sản bảo đảm; trong trường hợp không giao tài sản để xử lý hoặc có hành vi cản trở việc thu giữ hợp pháp tài sản bảo đảm mà gây thiệt hại cho bên nhận bảo đảm thì phải bồi thường. Trong quá trình tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, nếu bên giữ tài sản bảo đảm có dấu hiệu chống đổi, cản trở, gây mất an ninh, trật tự nơi công cộng hoặc có hành vi vi phạm pháp luật khác thì bên xử lý tài sản có quyền yêu cầu uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn và cơ quan công an nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để giữ gìn an ninh, trật tự, bảo đảm cho người xử lý tài sản thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm. 

- Lập sổ đăng ký quản lý tài sản bảo đảm Biên bản quản lý tài sản bảo đảm phải thể hiện rõ việc giao nhận tài sản bảo đảm, phương thức xử lý tài sản bảo đảm, quyền và nghĩa vụ của các bên và các thỏa thuận khác. Khi bán tài sản, các bên phải thỏa thuận về giá mua bán tài sản bảo đảm và lập biên bản thỏa thuận về việc định giá tài sản. Trường hợp các bên không thỏa thuận được về giá của tài sản bảo đảm thì bên quản lý tài sản bảo đảm thuê cơ quan tư vấn hoặc cơ quan chuyên môn định giá và quyết định giá xử lý tài sản theo giá do cơ quan chuyên môn quy định hoặc theo giá Nhà nước quy định (nếu có). 

5. Các trường hợp phải xác định giá khởi điểm của khoản nợ xấu

 - Khoản nợ xấu được công ty quản lý tài sản mua theo giá trị sổ sách bằng trái phiếu đặc biệt nhưng khi xác định giá khởi điểm để đấu giá, VAMC không thỏa thuận được với tổ chức tín dụng bán khoản nợ theo giá khởi điểm. 

- Khoản nợ xấu được công ty quản lý mua lại theo giá trị thị trường. 

- Việc bảo lãnh khoản nợ khó đòi mà khi xác định giá khởi điểm đấu giá, Công ty quản lý danh mục đầu tư không thống nhất được với bên bảo lãnh về giá khởi điểm.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo