Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Hiến pháp 2013) đã bổ sung một nguyên tắc mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta. Tức là “Quyền lực của Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan của Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Đó vừa là quan điểm, vừa là kim chỉ nam để theo đuổi, xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước ta trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới cả về kinh tế và chính trị.

1. Quyền lực nhà nước là thống nhất
Quyền lực nhà nước thống nhất là vấn đề lý luận và thực tiễn sâu sắc. Cho đến nay, các khía cạnh của câu hỏi về quyền lực nhà nước là thống nhất như: Thế nào là thống nhất quyền lực nhà nước? Quyền lực nhà nước thống nhất ở đâu? Ý nghĩa của quyền lực nhà nước thống nhất trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước? Những khía cạnh này đã không được nhìn nhận một cách thống nhất. Có người cho rằng quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng sự thống nhất đó tập trung ở Quốc hội. Vì vậy, Quốc hội được Hiến pháp ghi nhận là cơ quan quyền lực nhà nước tối cao. Và với vị trí pháp lý này, những người này cho rằng Quốc hội là cơ quan quyền lực nhất, là cơ quan cấp trên của quyền hành pháp và quyền tư pháp. Một số khác lại cho rằng trong một nhà nước kiểu mới như nước ta, giai cấp công nhân và những người lao động dưới sự lãnh đạo của một Đảng ngày càng đoàn kết với nhau vì lợi ích, không có sự chia rẽ nội bộ. Để hình thành phe đối lập như trong nhà nước tư sản, thống nhất quyền lực nhà nước là yếu tố cơ bản duy nhất có vai trò quyết định đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước mà không nhất thiết phải phân chia quyền lực nhà nước. Quan niệm này đề cao tính thống nhất của quyền lực nhà nước, phủ nhận, bỏ qua hoặc giảm thiểu vai trò của việc phân định, giao quyền một cách rõ ràng. Trên thực tế, khái niệm này không khác gì khái niệm đã đề cập ở trên. Theo nội dung và tinh thần của Hiến pháp 2013, quyền lực Nhà nước thống nhất thuộc về nhân dân. Quan điểm quyền lực thống nhất của Nhà nước là ở nhân dân, thể hiện ở nguyên tắc “Tất cả quyền lực của Nhà nước thuộc về nhân dân”.
Hiến pháp trước đây cũng quy định “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” nhưng được thực hiện theo nguyên tắc tập trung quyền lực nhà nước (tập trung quyền lực). Vì vậy, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân nhưng tập trung ở Quốc hội, theo quan niệm trên. Nhận thức rõ Nhân dân là đối tượng của quyền lực Nhà nước nhưng do không thể trực tiếp thực hiện quyền lực Nhà nước nên đã trao toàn bộ quyền lực Nhà nước cho Quốc hội. Quốc hội được Hiến pháp năm 1980 xác định là cơ quan có thẩm quyền cao nhất. Ngoài 15 nhiệm vụ và quyền hạn quy định tại Điều 83, Hiến pháp 1980 còn quy định “Quốc hội có thể giao cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết” (Điều 83) Tại Hiến pháp 1992, Điều 84 quy định: Quốc hội Quốc hội chỉ có 14 nhiệm vụ và quyền hạn (không còn là Quốc hội toàn quyền như Hiến pháp 1980) nhưng Điều 6 Hiến pháp quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội, là quyền lực của nhân dân thông qua Quốc hội”. Hội và Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện ý chí, nguyện vọng của Nhân dân…”. Như vậy, trong Hiến pháp 1992, Quốc hội vẫn là cơ quan quyền lực tối cao của Quốc hội vì Nhân dân không thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua dân chủ trực tiếp mà chỉ thông qua dân chủ đại diện. Nguyên tắc tập trung quyền lực nhà nước của nhân dân trong Quốc hội phù hợp với điều kiện kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp, có ưu điểm là bảo đảm quyền lực nhà nước tập trung, việc ra quyết định và thực hiện quyền lực nhà nước nhanh chóng, thống nhất. quyền lực. Tuy nhiên, nguyên tắc này trong điều kiện mới đã bộc lộ nhiều hạn chế. Đó là việc thiếu phân định phạm vi quyền lực nhà nước do nhân dân giao phó, dẫn đến không đề cao trách nhiệm của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, xem nhẹ vai trò dân chủ trực tiếp của nhân dân, ước lệ, thiếu kiểm soát. của quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước. Hơn nữa, nguyên tắc này phủ nhận tính độc lập tương đối của các quyền nên hạn chế tính năng động, hiệu quả và trách nhiệm của mỗi quyền. Nhân dân và xã hội không có cơ sở để đánh giá chất lượng hoạt động của quyền lực nhà nước. Vì vậy, trong điều kiện dân chủ và pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền lực tập trung không phù hợp để phát huy đầy đủ vai trò của quyền lực nhà nước do nhân dân làm chủ, tiềm ẩn nguy cơ lạm dụng quyền lực nhà nước do nhân dân từ các cơ quan nhà nước.
Thừa nhận giới hạn của nguyên tắc tập trung quyền trong điều kiện mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung, mở rộng năm 2011), Hiến pháp năm 2013 khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất, giữa các cơ quan có sự phân công, phối hợp và kiểm soát. của việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (điều 2). Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân, Hiến pháp quan niệm Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước. Nhân dân, bằng quyền hiến định của mình, giao quyền lực của mình cho Quốc hội, cho Chính phủ và cho Chính phủ. tư pháp như trong các bản Hiến pháp trước đây. Theo Điều 70 Hiến pháp 2013, Nhân dân chỉ trao cho Quốc hội ba nhóm quyền và nhiệm vụ: quyền và nhiệm vụ lập hiến, lập pháp; quyền hạn, nhiệm vụ giám sát tối cao và quyền hạn, nhiệm vụ quyết định những công việc quan trọng của đất nước. Đồng thời, Điều 6 quy định nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ thông qua dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước mà còn thông qua dân chủ trực tiếp thông qua việc thực hiện quyền bầu cử khi Nhà nước tổ chức bầu cử. trưng cầu ý dân, trong đó có trưng cầu ý dân về Hiến pháp (điều 29, 120)... Trong trường hợp này, nguyên tắc tất cả quyền lực của Nhà nước thuộc về nhân dân là đúng. để đảm bảo áp dụng đầy đủ, không có thủ tục. Như vậy, thống nhất quyền lực nhà nước được hiểu là toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thống nhất tập trung ở nhân dân, không nằm trong Quốc hội. Khái niệm này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực. Trước hết, nó cho thấy quyền lực nhà nước dù là lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều có nguồn gốc chung là Nhân dân, do Nhân dân ủy quyền và ủy quyền. Vì vậy, nói quyền lực nhà nước là thống nhất trước hết là sự thống nhất giữa mục tiêu chính trị và nội dung chính trị của nhà nước. Ba ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau nhưng thống nhất với nhau ở mục tiêu chính trị chung là xây dựng Nhà nước “không ngừng bảo đảm và phát huy các quyền của nhân dân”. nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, được quy định tại Điều 3 của Hiến pháp mới.
Quan niệm quyền lực nhà nước là thống nhất nêu trên trong Hiến pháp 2013 là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước nhằm thực thi trách nhiệm giải trình của nhà nước trước nhân dân, hạn chế sự ỷ lại, ỷ lại trong việc thực hiện các quyền, nhiệm vụ. được nhân dân ủy quyền. Đó cũng là cơ sở để không có chỗ cho những phần tử cực đoan, chống đối, thiếu trách nhiệm trong quan hệ giữa các quyền, nhất là giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp. Đồng thời, đó cũng là điều kiện để hình thành cơ chế giám sát, nhận xét, đánh giá chất lượng, việc thực hiện các quyền từ bên trong tổ chức quyền lực nhà nước cũng như từ bên ngoài là Nhân dân.
Như vậy, quyền lực nhà nước là thống nhất và tập trung trong Nhân dân, chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước là khái niệm có ý nghĩa chỉ đạo việc tổ chức quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mọi biểu hiện đi chệch quan điểm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân theo Hiến pháp 2013 đều dẫn đến tổ chức quyền lực nhà nước kém hiệu quả.
2. Về “sự phân công, phối hợp và kiểm tra giữa các cơ quan của Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và pháp quyền, quyền lực nhà nước không phải là quyền lực tự xưng của nhà nước mà là quyền lực do nhân dân ủy quyền và nhân dân ủy quyền. Từ đó, tất yếu nảy sinh nhu cầu chính đáng và tự nhiên về kiểm soát quyền lực nhà nước. Mặt khác, khi giao cho nhà nước, quyền lực nhà nước thường đi theo hướng tự phủ định, trước hết trở thành đối lập với chính mình (từ “dân” có nghĩa là đa số trở thành “đơn lẻ”). hoặc một người). C. Mác gọi hiện tượng này là sự tha hóa quyền lực nhà nước. Hơn nữa, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và được giao cho các cơ quan nhà nước, suy cho cùng là những người dân cụ thể. Và con người "luôn bị mọi loại cảm xúc và ham muốn chi phối cho hành động của mình. Điều này đôi khi cũng khiến lý trí bị chìm đắm".[1] Đặc biệt khi lý trí bị dục vọng, thói quen hoặc cảm xúc chi phối thì khả năng sai lầm càng lớn. trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. cho người có thẩm quyền. Hơn nữa, quyền lực nhà nước không phải là một đại lượng có thể cân, đo, đong, đếm rõ ràng được, bởi nó là một chỉnh thể thống nhất như đã nói ở trên. Điều này càng đòi hỏi phải có sự kiểm tra chặt chẽ hơn đối với quyền lực nhà nước, làm hạn chế hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện quyền lực nhà nước do nhân dân ủy quyền.
Xuất phát từ yêu cầu khách quan trên, quyền lực nhà nước thường được lượng hóa bằng các quy định của Hiến pháp nhằm phân định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Việc định lượng này phải được giao cho các cơ quan Nhà nước khác nhau, nhân danh Nhân dân. Việc phân chia quyền như vậy là điều kiện cơ bản để Nhân dân giao quyền mà không lạm quyền, Nhân dân giám sát, đánh giá hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện các quyền mà mình đã giao. Đồng thời, việc các cơ quan tương ứng được giao quyền chủ trì trong việc thực hiện quyền lực nhà nước và tự mình kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước được giao phó cũng phụ thuộc vào việc các cơ quan đó được giao quyền chủ trì. Như vậy, trong Hiến pháp 2013 đã thực hiện một bước mới trong phân công quyền lực nhà nước. Lần đầu tiên Hiến pháp nước ta quy định rõ Quốc hội thực hiện quyền lập hiến (không phải là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến như Hiến pháp 1992), quyền lập pháp (Điều 69), Chính phủ thực hiện quyền hành pháp (Điều 69) . Điều 94), Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp (Điều 102). Việc xác nhận các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp khác nhau là một thay đổi quan trọng, tạo điều kiện làm rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của từng quyền.
Vì quyền lập pháp là quyền đại diện cho Nhân dân thể hiện ý chí chung của quốc gia. Những người nhận quyền này từ nhân dân là những người được bầu ra bằng tuyển cử phổ thông đầu phiếu để thành lập cơ quan gọi là Quốc hội. Thuộc tính cơ bản, thông qua mọi hoạt động của quyền này, là đại diện cho Nhân dân, bảo đảm cho ý chí chung của Nhân dân được thể hiện trong pháp luật, trong đó là cơ quan duy nhất được Nhân dân ủy quyền biểu quyết theo pháp luật. Quyền biểu quyết lập pháp là một quyền lập pháp, không phải là quyền thiết lập các khuôn mẫu hành vi cho xã hội. Vì vậy, quyền lập pháp không đồng nghĩa với quyền lập pháp. Đồng thời, nhân danh Nhân dân giám sát tối cao mọi hoạt động của Nhà nước, nhất là việc thực hiện quyền hành pháp, nhằm ngăn chặn tình trạng lạm quyền mà Nhân dân đã gán cho các cơ quan của Nhà nước. Nhà nước bị lạm dụng. , hoặc tham nhũng. Quyền hạn và nhiệm vụ của Quốc hội trong việc thực hiện quyền lập hiến, lập pháp được quy định tại Điều 70 và Điều 120 của Hiến pháp 2013.
Quyền hành pháp là quyền tổ chức thực hiện ý chí chung của đất nước do chính phủ đảm nhận. Thuộc tính cơ bản, trong mọi hoạt động của quyền này là đề xuất, hoạch định, tổ chức xây dựng chính sách quốc gia và sau khi chính sách quốc gia được thông qua, tổ chức thực hiện và quản lý nhà nước mà chủ yếu không phải là tổ chức thực thi pháp luật. . bảo đảm an toàn, an ninh và phát triển xã hội. Không có chính phủ nào thực thi quyền hành pháp một cách hiệu quả và thông minh; Không thể có một nhà nước giàu mạnh, phát triển ổn định cả về kinh tế và xã hội. Việc thực hiện quyền này đòi hỏi Chính phủ và các thành viên phải nhanh nhạy, quyết đoán, kịp thời và tập trung quyền lực thống nhất. Quyền hạn, nhiệm vụ của chính phủ – cơ quan thực hiện quyền hành pháp được quy định chung tại Mục 96 Hiến pháp 2013.
Quyền tư pháp là quyền xét xử do Nhân dân giao cho Toà án thực hiện.
Độc lập và tuân thủ pháp luật là nguyên tắc cao nhất và minh bạch nhất của tổ chức để thực hiện quyền này; Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân (khoản 2 Điều 103). Thực chất đó là quyền bảo vệ ý chí chung của dân tộc thông qua việc xét xử các hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật của công dân và cơ quan nhà nước. Vì vậy, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền của công dân là nhiệm vụ chính của tư pháp (khoản 3, điều 102). Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ nguyên tắc của pháp luật và công lý trong các quyết định tư pháp.
Như vậy, xuất phát từ đặc điểm của quyền lực nhà nước, sự phân chia giữa ba quyền nói trên là một tất yếu khách quan. Ngày nay, xu hướng phân định rõ ba quyền này ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong tổ chức quyền lực nhà nước. Bởi vì, xã hội càng phát triển thì sự phân công lao động càng được chuyên môn hóa để phát huy hiệu quả. Đồng thời, thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta cho thấy, việc phân định nhất quán tam quyền là cách tốt nhất để phát huy vai trò của nhà nước trong xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, như trên đã nói, ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất. Đó là sự thống nhất về một mục tiêu chính trị chung. Vì vậy, việc phân định quyền lực nhà nước không bao hàm hoặc bao hàm việc tách rời mục đích chính trị chung ra khỏi quyền lực nhà nước. Vì vậy, mặc dù có sự phân biệt giữa ba quyền nhưng ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp không hoàn toàn tách rời nhau mà “ràng buộc lẫn nhau”, cả ba phải phối hợp với nhau và hoạt động nhịp nhàng trên cơ sở thực hiện quyền làm đúng, thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn mà nhân dân giao đối với từng quyền đã được Hiến pháp - đạo luật gốc của nhà nước và xã hội quy định. Mục đích của phân chia quyền lực nhà nước là để kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo đảm nhà nước pháp quyền, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, không nhằm thỏa hiệp hoặc phân chia quyền lực nhà nước, phân chia quyền lực nhà nước giữa các tập quyền. Thực tiễn cho thấy, sức mạnh và sự thịnh vượng của một quốc gia cũng như khả năng đương đầu với những khó khăn, thách thức phần lớn được quyết định bởi sức mạnh của thể chế, sự cam kết của các nhánh quyền lực nhà nước đối với nhân dân về pháp quyền. . Nó không kém phần quan trọng so với tài nguyên thiên nhiên, khí hậu hay vị trí địa lý của đất nước. Những quốc gia duy trì sự phát triển ổn định lâu dài về kinh tế, xã hội và chính trị là những quốc gia tuân theo tinh thần pháp quyền. Ý nghĩa của phân định quyền lực nhà nước là phân định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước để nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, quyền lực của nhà nước ngày càng thực chất hơn. nhà nước ngày càng là quyền lực của nhân dân, tính pháp quyền của nhà nước ngày càng được củng cố. Nội dung, tinh thần của các quy định về phân định nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chính phủ và Tòa án nhân dân nhìn chung đáp ứng yêu cầu nêu trên và là cơ sở cho hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. Đối với kiểm soát quyền lực nhà nước, bên cạnh việc phân định nhất quán nhiệm vụ, quyền hạn để tạo cơ sở cho kiểm soát quyền lực; Hiến pháp 2013 cũng là cơ sở của Hiến pháp hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định (Điều 119). Đồng thời, Hiến pháp giao cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. . Như vậy, mặc dù Hiến pháp lần này không hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp chuyên biệt như Nghị quyết Đảng đề ra nhưng với quy định tại Điều 119 đã tạo cơ sở hiến định để xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định. Tiếp theo, Luật Hoạt động kiểm sát của Quốc hội, Luật Thanh tra, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân chắc chắn sẽ được sửa đổi, bổ sung để hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước tuân thủ Hiến pháp hiệu quả hơn.
Trong tổ chức quyền lực nhà nước ở các nước theo nguyên tắc phân quyền mềm, việc kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp chủ yếu là lập pháp và tư pháp kiểm soát hành pháp. Để tăng cường kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung, điều chỉnh một số nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, ví dụ: Ủy ban thường vụ Quốc hội. thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới, đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (khoản 8 Điều 74). Quốc hội có thêm nhiệm vụ, quyền hạn: phê chuẩn, đề nghị, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (khoản 7 Điều 70). Cùng với đó, Hiến pháp 2013 đã thiết lập thêm hai thiết chế độc lập: Hội đồng bầu cử quốc gia có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp (điều 117) và cơ quan Kiểm sát Nhà nước có nhiệm vụ giúp Quốc hội kiểm soát việc quản lý, sử dụng tài chính và tài sản công (điều 118). Sự ra đời của các thiết chế hiến định độc lập này cũng nhằm tăng cường công cụ để nhân dân kiểm soát quyền lực của nhà nước trong bầu cử, sử dụng hiệu quả hơn nguồn tài chính ngân sách nhà nước và tài sản công.
Nội dung bài viết:
Bình luận