Quan hệ pháp luật mang tính giai cấp [Chi tiết 2024]

Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước xác lập hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục tiêu, phương hướng của Nhà nước.

quan hệ pháp luật mang tính giai cấp

quan hệ pháp luật mang tính giai cấp

 

 2. Các đặc trưng cơ bản của pháp luật

 Nhìn chung, pháp luật có những đặc điểm cơ bản sau: Quyền lực của pháp luật (nhà nước, cưỡng chế) Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Nói cách khác, pháp luật được hình thành và phát triển thông qua kênh của nhà nước chứ không phải thông qua một kênh nào khác. Theo đúng nghĩa của nó, nhà nước là một tổ chức hợp pháp, công cộng và quyền lực bao trùm toàn bộ xã hội. Vì vậy, khi pháp luật được nhà nước ban hành và bảo đảm thi hành thì pháp luật đó có sức mạnh của quyền lực nhà nước và có thể tác động đến tất cả mọi người. Đặc điểm này chỉ có trong luật. Các loại quy tắc xử sự khác chỉ được hành động trong một khuôn khổ hạn chế, một cách “nhẹ nhàng” hơn và được bảo đảm bởi dư luận xã hội, chứ không phải bằng quyền lực của nhà nước như trường hợp của pháp luật (trừ trường hợp cá nhân vì lợi ích của Nhà nước). ). luật Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự, là những khuôn mẫu, chuẩn mực cụ thể, không trừu tượng và chung chung. Tính hợp pháp của pháp luật nói lên những giới hạn cần thiết mà nhà nước quy định để mọi người (chủ thể) tự do hành xử trong khuôn khổ cho phép. Vượt quá giới hạn này là vi phạm pháp luật. Giới hạn này được xác định ở nhiều khía cạnh khác nhau như ủy quyền, cấm đoán, nghĩa vụ... Về nguyên tắc, pháp luật phải cụ thể, kỷ cương, chuẩn mực, không thể lạm dụng, tùy tiện. Vì vậy, khi đưa ra luật, xét cho cùng thì phải xem xét quy định cụ thể. Nếu không có bộ quy phạm pháp luật thì không thể quy kết một hành vi là vi phạm hay trái pháp luật. Các nguyên tắc: “Mọi người có quyền làm mọi việc, trừ những điều pháp luật cấm”, “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” được hình thành trên cơ sở đặc trưng là tính hợp pháp của pháp luật. Chính đặc điểm cơ bản này đã làm cho pháp luật ngày càng có tính “thống trị”, vượt trội so với các loại quy phạm xã hội trong một xã hội văn minh, hiện đại. Ý chí của pháp luật Pháp luật luôn là hiện tượng tự nguyện, không phải là kết quả của sự tự phát hay cảm tính. Về bản chất, ý chí trong pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị và vũ lực. Điều này được thể hiện rõ trong mục đích xây dựng pháp luật, nội dung của pháp luật và dự kiến ​​hiệu lực của pháp luật khi được thực hiện trong thực tiễn đời sống xã hội. Trên thực tế, chỉ có các thế lực nắm giữ nhà nước mới có thể thể hiện đầy đủ ý chí và lợi ích của mình trước pháp luật. Một khi ý chí và lợi ích đã được pháp luật hợp pháp hóa thì chắc chắn chúng sẽ được thực hiện bằng quyền lực nhà nước. Vì vậy, tất cả các quá trình xây dựng, tổ chức, thực hiện và bảo vệ pháp luật đều diễn ra dưới những hình thức cụ thể, theo những nguyên tắc và thủ tục chặt chẽ. Nó là kết quả của sự phản ánh tích cực và có ý thức của các nhà tư tưởng và các nhà cầm quyền. Nó cũng cho thấy rõ sự khác biệt giữa pháp luật với các hệ thống quy phạm khác. Bản chất xã hội của pháp luật Mặc dù pháp luật mang bản chất nhà nước và ý chí nhưng tính xã hội vẫn là đặc trưng cơ bản không thể xem thường. Như đã phân tích ở mục 1, để pháp luật có hiệu lực thì nó phải phù hợp với điều kiện cụ thể của xã hội, nghĩa là vào thời điểm tồn tại, pháp luật phải phản ánh nhu cầu khách quan của xã hội. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của các quan hệ xã hội, pháp luật chỉ có thể mô hình hóa những nhu cầu xã hội khách quan điển hình, phổ biến và thông qua đó tác động trở lại các quan hệ xã hội. Các hệ thống xã hội khác định hướng các mối quan hệ này phát triển theo hướng do nhà nước xác định. Như vậy, ở đặc điểm này, sự khác biệt của pháp luật với các quy phạm xã hội khác thể hiện ở tính đầy đủ và tính đặc trưng (có tính phổ biến) của các quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh. Việc xem xét các đặc điểm cơ bản của quy luật nêu trên cho thấy rõ bản chất và sự khác biệt giữa quy luật với các hiện tượng khác. Bốn đặc tính cơ bản đều quan trọng và nằm trong mối quan hệ bản chất với nhau, không thể chỉ tập trung vào một điểm mà bỏ qua các điểm khác. Tuy nhiên, các tính năng được đề cập chỉ là các tính năng cơ bản, bên cạnh đó còn có các tính năng khác. Tùy theo yêu cầu kiểm tra chặt chẽ một loại pháp luật, một hệ thống pháp luật đặc trưng của một vùng, một quốc gia nhất định, chúng tôi sẽ đề cập chi tiết hơn. Ví dụ: cái chung và cái riêng, thành văn và bất thành văn, nghiêm khắc và nhân văn... 

3. Bản chất giai cấp của pháp luật 

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước, do đó về bản chất, pháp luật cũng là một hiện tượng xã hội luôn thể hiện hai tính chất: tính xã hội và tính giai cấp. Tính giai cấp của pháp luật thể hiện ở chỗ: Pháp luật là sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị hoặc lực lượng thống trị trong xã hội, là công cụ điều chỉnh các quan hệ giữa các giai cấp, lực lượng xã hội với ý nghĩa bảo vệ lợi ích, quyền và vị trí thống lĩnh của lực lượng này. Nói cách khác, đó là ý chí của lực lượng cầm quyền được pháp luật quy định. Bởi vì: Các giai cấp thống trị trong lịch sử đều theo đuổi mục tiêu củng cố và bảo vệ nền thống trị của mình, tìm mọi cách để đạt được mục tiêu đó. Một trong những cách hiệu quả nhất là biến ý chí của giai cấp thống trị thành ý chí của nhà nước, và từ ý chí của nhà nước, nó sẽ biểu hiện thành những quy định cụ thể của pháp luật, tức là trong các quy tắc. trong toàn xã hội. Bằng cách đó, giai cấp thống trị có thể điều khiển hoạt động của toàn xã hội nhằm đạt được mục đích cuối cùng của nó. - Pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa các giai cấp, điều chỉnh các quan hệ xã hội theo hướng mà giai cấp thống trị hoặc lực lượng thống trị mong muốn nhằm bảo vệ lợi ích, quyền lợi và vị trí thống trị của lực lượng này. . Vì vậy, trong pháp luật có nhiều quy định thể hiện tính giai cấp của nó như: Quy định về công nhận và bảo vệ tài sản, sự thống trị về chính trị, tư tưởng của giai cấp thống trị…

 - Những biểu hiện tính giai cấp của pháp luật thay đổi theo các loại pháp luật: Pháp luật chủ nô thể hiện ý chí, bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô và tính giai cấp của loại pháp luật này được thể hiện khá công khai, rõ ràng. Pháp luật phong kiến ​​thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ, phong kiến ​​và tính giai cấp của loại pháp luật này cũng được thể hiện rõ ràng, công khai. Pháp luật tư sản thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, song biểu hiện tính giai cấp của kiểu pháp luật này có sự thay đổi qua các giai đoạn phát triển của xã hội tư bản chủ nghĩa 

– Ớ giai đoạn của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, tính giai cấp của pháp luật tư sản chưa thể hiện công khai thì ở giai đoạn của chủ nghĩa để quốc, tính giai cấp của pháp luật tư sản thể hiện công khai và rõ rệt hơn nhiều so với giai đoạn trước; còn ở giai đoạn của chủ nghĩa tư bản hiện đại, tính giai cấp của pháp luật tư sản có xu hướng thể hiện mờ nhạt hơn so với giai đoạn trước. Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và những người lao động khác dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, là sự thể chế hóa đường lối, chính sách của đảng này. Tính giai cấp của kiểu pháp luật này thể hiện mờ nhạt nhất trong tất cả các kiêu pháp luật vì giai cấp thống trị trong xã hội này chiếm tuyệt đại đa số dân cư. Các nhà nghiên cứu đã xác định, pháp luật là công cụ của giai cấp nắm quyền lực nhà nước, nhằm quản lý, điều chỉnh các quan hệ xã hội; bảo vệ và duy trì trật tự công cộng phù hợp với ý chí, lợi ích của giai cấp cầm quyền. Các giai cấp thống trị trong lịch sử đều theo đuổi mục đích củng co và bảo vệ quyền thống trị của mình và thông qua nhà nước ý chí đó sẽ thể hiện thành các quy định cụ thể của pháp luật, tức là thành các quy tắc xử sự có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện trong toàn xã hội. Vì vậy, pháp luật và nhà nước có mối quan hệ mật thiết với nhau và là hai bộ phận hợp thành của kiến ​​trúc thượng tầng. Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, nhưng quyền lực này chỉ có thể được triển khai và phát huy hiệu quả trên cơ sở các quy định của pháp luật. Pháp luật luôn phản ánh quan điểm, đường lối chính trị của giai cấp nắm quyền lực nhà nước và bảo đảm cho quyền lực này được triển khai nhanh chóng, rộng rãi trong xã hội. Vì vậy, nhà nước không thể tồn tại và thực hiện quyền lực của mình nếu không có pháp luật; ngược lại, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và có hiệu lực khi nó dựa trên cơ sở của lực lượng quyền lực nhà nước. Pháp luật không chỉ phản ánh bản chất giai cấp mà còn phản ánh nhu cầu khách quan, phổ biến của các quan hệ xã hội. Vì vậy, nhà nước không thể ban hành pháp luật một cách tùy tiện, chủ quan, tự nguyện, không tính đến nhu cầu, lợi ích của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Khi các phần của pháp luật trở nên lỗi thời, không còn phù hợp Các yếu tố cơ bản nhất của cấu trúc xã hội là các nhóm có địa vị, vai trò và thể chế. Theo định nghĩa trên, cơ cấu xã hội có những đặc điểm sau: Thứ nhất, cơ cấu xã hội không chỉ được nhìn với tư cách là một tổng thể, một tập hợp các bộ phận bao gồm cộng đồng, giai cấp và cơ cấu xã hội, mà còn được nhìn nhận dưới góc độ cơ cấu và tổ chức bên trong. của một hệ thống xã hội. Điều này cho phép chúng ta giải thích xã hội được tạo nên từ cái gì, và các bộ phận của nó ăn khớp với nhau như thế nào và ăn khớp với nhau như thế nào. Thứ hai, cơ cấu xã hội được xem là sự thống nhất của hai mặt: thành phần xã hội và quan hệ xã hội. Nó khắc phục cách nhìn phiến diện quy cơ cấu xã hội vào quan hệ xã hội, đồng thời khắc phục quan điểm tách rời giữa cơ cấu xã hội và quan hệ xã hội. Cấu trúc xã hội là cái khung để nhìn xã hội, nó cho ta biết vị trí hay địa vị của các cá nhân, nhóm xã hội và thiết chế xã hội - tức là cách thức tổ chức các hoạt động xã hội và quan hệ xã hội nhằm đảm bảo sự phù hợp trong hành vi của các nhóm và cá nhân. với các chuẩn mực và giá trị xã hội chung, từ đó bảo đảm cho sự hoạt động bình thường, ổn định và phát triển của xã hội. 

4. Phân tích tính xã hội của pháp luật 

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của nhà nước, do đó về bản chất, pháp luật cũng là một hiện tượng xã hội luôn thể hiện hai tính chất: tính xã hội và tính giai cấp. Tính xã hội của pháp luật thể hiện ở chỗ: Pháp luật là sự thể hiện ý chí chung của toàn xã hội, là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội, nhằm thiết lập và duy trì trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích của xã hội. của cả cộng đồng, vì sự phát triển chung của xã hội. 

– Trong đời sống xã hội, do đòi hỏi của các quan hệ giao tiếp giữa mọi người nên đã hình thành các thói quen, các quy tắc, các chuẩn mực ứng xử có tính chất chân lý, thể hiện ý chí chung của cả cộng đồng, được cả cộng đồng chấp thuận và tuân thủ. Ví dụ: cách ứng xử giữa cha mẹ và các con, ông bà và các cháu, giữa người mua và người bán… Khi nhà nước thừa nhận các quy tắc này thì tạo nên tính xã hội của pháp luật. – Pháp luật là phương tiện để giải quyết khía cạnh “xã hội” của đời sống như phòng, chống và khắc phục hậu quả chiến tranh, thiên tai, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ người lang thang, cơ nhỡ… Nói cách khác, pháp luật luôn hàm chứa các giá trị xã hội phổ biến, thuộc về con người. Pháp luật luôn phản ánh điều kiện kinh tế – xã hội, những quan niệm đạo đức truyền thống tốt đẹp, thuần phong, mỹ tục… của dân tộc 

– Vì thế, trong pháp luật có nhiều quy định thể hiện tính xã hội của nó: Quy định về chế độ phổ cập giáo dục bắt buộc cho công dân, bảo vệ trật tự an ninh, an toàn giao thông, bảo đảm thông tin, liên lạc, bảo vệ môi trường sống… 

– Pháp luật là biểu tượng của nền công lý, công bằng xã hội, nó bảo đảm cho các chủ thể ngang quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm với nhau trong những mối quan hệ xã hội nhất định. Pháp luật là một trong những công cụ để bảo vệ những công trình và những giá trị văn hoá, tinh thần chung của xã hội, những giá trị đạo đức, truyền thống và một số phong tục, tập quán của dân tộc. 

– Mặc dù tính xã hội là thuộc tính chung cho mọi loại pháp luật, nhưng tùy từng loại pháp luật mà biểu hiện của tính xã hội lại khác nhau. Song song với sự phát triển của xã hội, tính xã hội của pháp luật ngày càng sâu sắc và trở nên khái quát. Biểu hiện xã hội của pháp luật nô lệ, phong kiến ​​còn mờ nhạt, hạn chế, thể hiện chủ yếu ở vai trò là công cụ bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, trừng trị tội phạm, bảo vệ công trình công cộng… Biểu hiện xã hội của pháp luật tư sản thay đổi nhiều trong các giai đoạn phát triển của nhà nước tư sản. Pháp luật tư sản ra đời đánh dấu nhiều tiến bộ hơn so với pháp luật phong kiến. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật dần được mở rộng bao trùm hầu hết các lĩnh vực của đời sống, từ các quan hệ gia đình đến các quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội trong đời sống cộng đồng. Pháp luật trở thành công cụ quan trọng để xác lập địa vị pháp lý bình đẳng giữa các cá nhân trong xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Vào thời điểm mà chủ nghĩa dân tộc, từ chỗ bị thao túng bởi các tập đoàn tư bản độc quyền, chìm đắm trong các cuộc chiến tranh xâm chiếm và mở rộng lãnh thổ, hoạt động của nhà nước tư sản chủ yếu xoay quanh việc bảo vệ lợi ích của các nhà tư bản lớn, các nhà độc quyền, vai trò và ý nghĩa xã hội của tư sản ngay trong thời kỳ này đã bị hạn chế. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, pháp luật tư sản hướng tới dân chủ, nhân đạo, theo nghĩa bảo đảm công bằng, bình đẳng, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm ổn định, giải quyết và chống khủng hoảng xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững. Thuộc về xã hội. Hiện nay, pháp luật được coi là công cụ quan trọng để chống tham nhũng quyền lực nhà nước, bảo vệ người dân và bảo vệ công lý. Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện tính xã hội rộng rãi và sâu sắc nhất so với các loại pháp luật trước đây. Pháp luật là công cụ giải phóng con người khỏi mọi áp bức bất công, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống tự do, hạnh phúc, trong đó các giá trị con người được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là pháp luật vì nhân dân, vì nhân dân phục vụ, bảo đảm cho nhân dân có điều kiện phát huy tài năng, phát triển toàn diện

5. Tính xã hội và giai cấp trong Hiến pháp Việt Nam 

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 là sự kết tinh của “ý Đảng, lòng dân”, mang bản chất giai cấp công nhân và tính xã hội sâu sắc; trong đó quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân được hiến định đầy đủ và hoàn chỉnh. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 (Hiến pháp 2013) - văn bản chính trị, pháp lý quan trọng nhất của nước ta, được Quốc hội khóa 13, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013; Có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2014, được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thi hành. Kết quả của quá trình xây dựng, hình thành và thông qua, Hiến pháp 2013 được dư luận quốc tế và trong nước đánh giá cao về nhiều mặt, đó là: bảo đảm tính thực tiễn, tính khoa học và phù hợp với các giá trị, chuẩn mực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, vì nhân dân. cho người dân. Và thực sự Hiến pháp quy tụ ý chí, nguyện vọng của toàn dân và của Đảng cầm quyền, thể hiện sâu sắc tính giai cấp, tính xã hội và tính đại chúng. Tuy nhiên, một số “nhà khoa học”, “chính trị gia”, “nhà hoạt động nhân quyền”,… trong và ngoài nước với bản chất thù địch, chống đối xã hội đã “đăng đàn” cho rằng Hiến pháp “nặng nề” về mặt giai cấp. , trong khi tính xã hội “yếu ớt” thì quyền con người, quyền công dân bị vi phạm. Đây là những quan điểm hoàn toàn sai lầm, là những cách hiểu Hiến pháp 2013 một cách xuyên tạc, mơ hồ và vô trách nhiệm. Trước hết hãy nói về bản chất giai cấp của hiến pháp. Từ thực tiễn lịch sử của xã hội tư sản Pháp những năm 1848 - 1851, C. Mác chỉ rõ, hiến pháp là kết quả vận động của đời sống chính trị, không những nội dung mà cả hình thức cũng chịu sự tác động trực tiếp của quá trình này. đấu tranh giai cấp. Đó là ý chí của giai cấp thống trị được quy định trong pháp luật để bảo vệ giai cấp của mình. Vì vậy, nó mang bản chất giai cấp thống trị của xã hội. Đây là một trong những khám phá vĩ đại của C. Mác và Ph.Ăngghen, khôi phục lại cho học thuyết của mình tính cách mạng và khoa học sâu sắc. Lý luận cũng như lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới đã xác định pháp luật nói chung, hiến pháp nói riêng là công cụ pháp lý cưỡng chế của giai cấp thống trị nhằm quản lý, điều hành nhà nước. bảo vệ và duy trì trật tự công cộng theo ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nước ta ra đời sau thành công của Cách mạng Tháng Tám - cuộc cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo với sự hình thành khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân là điều hiển nhiên, không có gì phải nghi ngờ. Tuy nhiên, hoàn toàn khác với bản chất giai cấp trong hiến pháp của các nhà nước tư sản, Hiến pháp 2013 là sự thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đem lại ấm no, hạnh phúc cho cả dân tộc Việt Nam. Ở nước ta, pháp luật nói chung và Hiến pháp nói riêng là sự thể hiện ý chí và lợi ích của giai cấp công nhân và người lao động, việc thực hiện được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở giáo dục, thuyết phục. mọi người tôn trọng và tự giác chấp hành. là công cụ pháp lý của nhà nước để quản lý, điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân, người lao động và của quốc gia, dân tộc; mang lại lợi ích cho số đông chứ không chỉ mang lại lợi ích cho một số ít nhà tư bản như trong xã hội tư sản. Ngoài tính giai cấp, phải nói Hiến pháp 2013 mang tính xã hội sâu sắc. Thứ nhất, về lợi ích, do có sự thống nhất về lợi ích giữa giai cấp công nhân với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội nên Hiến pháp 2013 đã thể hiện đầy đủ lợi ích của toàn dân. Đồng thời, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: từ hệ thống chính trị, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đến kinh tế, xã hội, văn hóa, bảo vệ Tổ quốc, v.v. đều được ghi trong Hiến pháp (đặc biệt, trong Chương III có 14 điều quy định về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường). Tuy nhiên, tư tưởng tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, được thể hiện xuyên suốt và nhất quán trong Hiến pháp 2013. “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là của nhân dân; tất cả quyền lực của Nhà nước thuộc về nhân dân…” (Khoản 1, 2 Điều 2). Đồng thời, Hiến pháp 2013 hoàn thiện và phát triển nguyên tắc: “Quyền lực của Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan của Nhà nước trong việc lập pháp, hành pháp, lập pháp và tố tụng” (khoản 3 , Điều 2). Đây là điểm mới quan trọng của Hiến pháp 2013 so với các bản trước đó. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, nguyên tắc “kiểm soát quyền lực” được ghi nhận, là cơ sở để phát huy quyền kiểm soát của nhân dân, đồng thời ngăn chặn sự lạm quyền nhà nước, phòng chống tham nhũng, lãng phí. Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu những tinh hoa, tư tưởng tiến bộ của các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, tổng kết việc thực hiện Hiến pháp 1992, Hiến pháp năm 2013 thể hiện đầy đủ hơn “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”; xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước và những bảo đảm của Nhà nước; đó là: công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời, khẳng định và làm rõ hơn các nguyên tắc về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo hướng: quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 15). Đặc biệt là, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một số quyền mới. Đó là: quyền sống (Điều 19); quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác (khoản 3, Điều 20); quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư (khoản 1, Điều 21); quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34); quyền kết hôn và ly hôn (khoản 1, Điều 36); quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); quyền xác định dân tộc (Điều 42); quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43). Những bổ sung này cho thấy, Nhà nước ta nhận thức ngày càng rõ hơn về quyền con người và hết sức chú trọng đến bảo đảm thực hiện quyền con người theo cam kết và phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đến nay, lịch sử dựng nước (Tuyên ngôn độc lập năm 1945), hiến pháp của nước ta đã hơn nửa thế kỷ, kể từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 và qua 4 lần sửa đổi, bổ sung, nhưng nội dung thì rõ ràng. thể hiện tính ưu việt, không ngừng phát triển và hoàn thiện của nó, nhất là về quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân. Các quyền cơ bản này thấm nhuần các thuộc tính tự nhiên, bất khả xâm phạm như quyền sống, quyền bình đẳng, quyền tự do mưu cầu hạnh phúc... thể hiện rõ bản chất dân chủ, nhân đạo, tiến bộ của chế độ xã hội chủ nghĩa, được ghi nhận. và được các nước trên thế giới đánh giá cao. Đồng thời cũng bác bỏ những luận điệu cho rằng tính xã hội của Hiến pháp 2013 là “yếu kém”, vi phạm quyền con người là hoàn toàn vô căn cứ, phi thực tế và phiến diện. Do “đậm” tính xã hội, quyền con người được hiến định đầy đủ và trọn vẹn, điều mà nhiều học giả trong và ngoài nước đều đồng tình: Hiến pháp 2013 của chúng ta cô đọng. Triết lý, mạch lạc, dễ hiểu và mẫu mực về mọi mặt. Đó cũng là một minh chứng rõ ràng không ai có thể phủ nhận. Những phát ngôn kích động, bóp méo sự thật, đi ngược lại bản chất vấn đề sẽ chỉ là vô vọng.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo