1. Học thuyết tam quyền phân lập
Học thuyết tam quyền phân lập là một học thuyết về tổ chức bộ máy nhà nước tư sản do Locke, Montesky và Ruso sáng lập dựa trên tư tưởng cho rằng nên hạn chế độc quyền bằng cách không tập trung quá nhiều quyền lực nhà nước vào tay một cơ quan nhất định, kiểm soát lẫn nhau. và kiểm soát giữa các hệ thống cơ quan nhà nước khác nhau.
Các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được trao cho các cơ quan khác nhau của nhà nước: quyền lập pháp thuộc quốc hội, quyền hành pháp thuộc chính phủ và quyền tư pháp thuộc tòa án.
Tam quyền phân lập là dùng quyền lực để kiểm soát, kiềm chế quyền lực. Theo mô hình phân quyền của Montesquist, việc một cơ quan của nhà nước đứng trên hoặc sở hữu đầy đủ cả ba quyền là không thể chấp nhận được. Mặt tích cực của học thuyết tam quyền phân lập là nó ngăn chặn được sự chuyên chế dễ nảy sinh trong một xã hội mà sự thống trị thuộc về một thiểu số thành viên trong xã hội. Tư tưởng tam quyền phân lập đã trở thành một trong những nội dung cơ bản của học thuyết nhà nước pháp quyền tư sản.

2. Các chức năng chủ yếu của nhà nước theo học thuyết tam quyền phân lập
Hành pháp là một trong ba chức năng của nhà nước, cùng với các nhánh lập pháp và tư pháp tạo thành quyền lực của nhà nước. Quyền lực của nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp theo quy định tại khoản 3 mục 2 Hiến pháp 2013.
Hành pháp là cơ quan thi hành hiến pháp, căn cứ vào hiến pháp để làm ra hoặc ban hành luật và thi hành chúng. Đại diện điều hành là chính phủ, người đứng đầu là tổng thống/chủ tịch nước.
Dưới đây là các quy định về quyền hành pháp và quyền hành pháp. Để hiểu rõ hơn vấn đề này, cần tham khảo Hiến pháp 2013.
Quyền lập pháp là một trong ba chức năng của nhà nước, cùng với quyền hành pháp và quyền tư pháp tạo thành quyền lực của nhà nước.
- Nghĩa rộng: trong mối quan hệ với quyền lực của nhà nước, pháp luật bao gồm cả việc làm Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp, việc làm và sửa đổi pháp luật. - Nghĩa hẹp: Quyền lập pháp chỉ bao gồm “làm luật và sửa đổi luật”.
Tư pháp là Theo học thuyết tam quyền phân lập, tư pháp là một trong ba nhánh quyền lực nhà nước: lập pháp (làm luật, làm luật); hành pháp (thi hành pháp luật) và tư pháp (bảo toàn pháp luật) bảo vệ pháp luật, xử lý các vi phạm pháp luật). Theo quan điểm của nhà nước Việt Nam, cơ quan tư pháp chỉ có nhiệm vụ tổ chức, giữ gìn và bảo vệ pháp luật.
Tư pháp còn là thuật ngữ chung chỉ các cơ quan điều tra, tuyển dụng, xét xử hoặc cơ quan thực hiện các nhiệm vụ hành chính tư pháp. Ví dụ: Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp...
3. Chế độ quân chủ là gì?
Chế độ quân chủ là hình thức nhà nước trong đó nhà vua là người nắm giữ quyền lực, mọi quyền lực trong nước đều thuộc về nhà vua. Có chế độ quân chủ tuyệt đối và chế độ quân chủ hạn chế.
Chế độ quân chủ là một hình thức chính trị phổ biến thường thấy ở các nhà nước chiếm hữu nô lệ, các nhà nước phong kiến và ở một mức độ hạn chế là cả các nhà nước tư sản. Đặc điểm tiêu biểu của chế độ quân chủ là quyền lực tối cao trong nhà nước thuộc về một người là vua. Vua lên ngôi (lên ngôi) thường theo nguyên tắc cha truyền con nối - “con vua nối ngôi”. Vua được coi là thiên tử - con của trời, “trời hành theo ý trời”, thay trời trị dân hay làm người, vua được coi là người lãnh sứ mệnh cai trị dân của trời và cũng là người chịu trách nhiệm trước trời, trước chúa. , đối với nhân dân, nhà vua không chịu trách nhiệm pháp lý.
4. Dân chủ là gì? Dân chủ là viết tắt của dân chủ hoặc quyền dân chủ.
Dân chủ là chế độ chính trị trong đó tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và do nhân dân trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu do nhân dân bầu ra thực hiện.
Dân chủ không chỉ là một hệ thống chính trị trong đó tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và do nhân dân thực hiện trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu dân cử. Xã hội dựa trên sự công nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, công nhận các nguyên tắc bình đẳng, tự do và nhân quyền.
Hơn nữa, dân chủ còn áp dụng cho các tổ chức chính trị của nhà nước trong các hình thái ý thức xã hội.
Tuy nhiên, dân chủ là kết quả của những giá trị nhân văn sinh ra từ phương thức tổ chức sản xuất vật chất, sự hợp tác và cố kết cộng đồng giữa các dân tộc. Vì vậy, dân chủ sẽ tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của con người, là một hình thức tồn tại của con người kể cả khi nhà nước không còn tồn tại.
5. Quan điểm về quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp trong thể chế chính trị thời kỳ hiện đại
Ở mỗi quốc gia có ba loại quyền lực: quyền lập pháp, quyền áp dụng luật quốc tế và quyền áp dụng luật dân sự.
Với quyền lực thứ nhất, nhà vua hoặc quan tòa ban hành luật trong một thời gian hoặc vĩnh viễn, đồng thời sửa đổi hoặc bãi bỏ các luật này.
Với quyền lực thứ hai, nhà vua quyết định bắn hoặc chiến đấu, gửi đại sứ đến các nước khác, thiết lập an ninh và ngăn chặn xâm lược. Với quyền lực thứ ba, nhà vua hoặc quan tòa trừng phạt tội phạm, xét xử các tranh chấp giữa các cá nhân. Đây sẽ được gọi là quyền tư pháp, và trên hết là quyền hành pháp quốc gia.
Quyền tự do chính trị của công dân là sự an tâm vì mọi người tin rằng họ an toàn. Để đảm bảo quyền tự do chính trị này, Chính phủ phải đảm bảo rằng mỗi công dân không phải sợ một công chúng khác.
Khi các quyền lập pháp và hành pháp được thống nhất trong tay của một người hoặc một Thượng viện duy nhất, thì không còn tự do nữa; bởi vì người ta sợ rằng anh ta hoặc viện sẽ chỉ đưa ra những luật lệ chuyên chế để được thi hành một cách độc tài. Cũng không có tự do nếu cơ quan tư pháp không tách rời khỏi quyền lập pháp và hành pháp. Nếu quyền tư pháp hợp nhất với quyền lập pháp, chúng ta sẽ có độc quyền về quyền sống và quyền tự do của công dân; Thẩm phán sẽ là người đưa ra luật. Nếu quyền tư pháp hợp nhất với quyền hành pháp, thẩm phán sẽ có quyền lực của kẻ áp bức.
Nếu cá nhân hay tổ chức quan lại, quý tộc hay nhân dân nào nắm giữ ba quyền lực trên thì tất cả sẽ mất.
Ở hầu hết các nước châu Âu, luật lệ thường có tính chất hạn chế, do nhà vua đã nắm cả quyền lập pháp và hành pháp nên để thần dân nắm quyền tư pháp. Ở Türkiye, ba quyền lực nằm trong tay của sultan (vua), chế độ chuyên chế tàn ác đè nặng lên đất nước.
Ở các nước cộng hòa Ý, nơi ba quyền này bị lẫn lộn, có ít tự do hơn ở châu Âu của chúng ta. Chế độ Cộng hòa ở Ý cũng đã sử dụng mồi nhử bạo lực ở Thổ Nhĩ Kỳ. Bằng chứng là các thanh tra nhà nước Ý có thể tố cáo sai sự thật, và bất cứ lúc nào kẻ xấu cũng có thể bỏ thư vào hòm thư tố cáo tố cáo những người vô tội mà chúng căm ghét.
Hãy xem xét tình huống của một người bình thường ở các nước cộng hòa khác: hội đồng quản trị vừa là người thi hành luật vừa là nhà lập pháp tự xưng. Họ có thể tàn phá quốc gia bằng ý chí xấu xa chung của họ. Vì các hộ gia đình cũng có quyền phán xét nên họ có thể nghiền nát mọi công dân tùy thích.
Ở đây, tất cả sức mạnh là một. Mặc dù không có biểu hiện của sự chuyên chế trên bề mặt, nhưng sự chuyên chế luôn được cảm nhận. Những vị vua muốn chuyên quyền luôn bắt đầu bằng cách tập hợp các quan lại xung quanh mình. Nhiều vị vua châu Âu đã đảm nhiệm tất cả các chức vụ trọng đại của quốc gia.
Tôi nghĩ chế độ quý tộc cha truyền con nối ở các nước cộng hòa Ý không hoàn toàn giống với chế độ chuyên chế ở châu Á, vì ở đây số lượng lớn các quan tòa làm dịu đi phương thức chính quyền. Không phải tất cả các quý tộc đều có ý định giống nhau. Tòa án đã được tạo ra để hòa giải. Thế là xong, ở Venice Đại hội đồng có quyền lập pháp; Quyền hành pháp là Pregadi (pregadi), và quyền tư pháp là Quarânties (caranti). Nhưng điều tệ hại là các tòa án khác nhau lại bị chia cắt bởi các tập đoàn thống trị nên chỉ có một loại quyền lực.
Quyền phán quyết không nên được giao cho Thượng viện thường trực, mà cho các thành viên của công chúng, những người được bổ nhiệm theo thời gian trong năm, được thành lập theo luật, được thành lập tại tòa án, và trong bao lâu, tùy theo sự quan tâm .
Làm như vậy, quyền phán xét, một quyền đáng sợ đối với dân leo núi, không gắn với cơ quan, chức vụ nào, nó trở nên vô hình, như số không. Không phải lúc nào người dân cũng nhìn thấy tòa án trước mắt nên người ta sợ guồng máy chính quyền chứ không sợ kẻ cầm quyền.
Trong các vụ án hình sự lớn, bị cáo trong trường hợp tranh chấp với pháp luật nên được chọn thẩm phán cho mình (hiểu đúng hơn là luật sư bào chữa), hoặc ít nhất có quyền từ chối thẩm phán được chỉ định mà bị cáo không thích. Đối với quyền lập pháp và hành pháp, nó có thể được giao cho các cơ quan thường trực và các quan chức, vì nó không áp dụng cho các cá nhân. Quyền lập pháp thể hiện ý chí chung của quốc gia, quyền hành pháp thực hiện ý chí chung này.
Nhưng nếu không nhất thiết phải sửa toà án thì phải sửa hình phạt, đến mức chỉ ghi những điều cụ thể vào luật. Nếu phán quyết là ý kiến riêng của quan tòa, thì các công dân của xã hội sẽ không biết họ đã ký kết khế ước xã hội như thế nào.
Thẩm phán cũng phải ngang tầm với bị cáo, đồng cấp với bị cáo để bị cáo không nghĩ mình tiếp tay cho những kẻ ra tay hãm hại mình. Nếu cơ quan lập pháp cho phép cơ quan hành pháp có quyền bắt giữ những công dân có thể bảo đảm cho người dân của họ, thì tự do sẽ không còn nữa. Công dân chỉ có thể bị bắt khi họ ngay lập tức tiếp xúc với những gì luật coi là tội nghiêm trọng nhất. Trong trường hợp này, công dân vẫn được tự do, bởi vì anh ta chỉ tuân theo thẩm quyền của pháp luật.
Nếu có nguy cơ xảy ra âm mưu bạo loạn hoặc liên lạc với kẻ thù nước ngoài, nhà lập pháp có thể ủy quyền cho các cơ quan thực thi pháp luật bắt giữ những công dân bị tình nghi trong một thời gian ngắn. Trong một thời gian ngắn, công dân bị bắt là mất tự do, nhưng bảo toàn tự do mãi mãi. Ở một đất nước tự do, mọi người đều được coi là một tinh thần tự do, vì vậy họ nên tự cung tự cấp. Mọi người biết nhu cầu của thành phố của họ tốt hơn các thành phố khác. Mọi người hiểu khả năng của hàng xóm của họ tốt hơn hàng xóm của người khác. Do đó, các thành viên của cơ quan lập pháp nên để người dân của mỗi địa phương chọn một người chứ không phải cả nước. Ưu điểm lớn của các đại biểu là họ có thể thảo luận về bất kỳ công việc kinh doanh nào. Mọi người không thể làm điều đó. Đây là một trong những nhược điểm lớn của nền dân chủ.
Các đại biểu tiếp thu ý kiến chung của cử tri, không nhất thiết phải hỏi ý kiến cử tri từng vấn đề nhỏ như ở Quốc hội Đức.
Chắc chắn rằng làm được như vậy thì tiếng nói của đại biểu mới phản ánh được tiếng nói của cả nước; nhưng nó sẽ tồn tại mãi mãi; và trong trường hợp bị áp bức, tất cả sức mạnh quốc gia sẽ bị chặn lại vì cách làm việc này.
Khi các đại biểu đại diện cho một nhóm người, như ở Hà Lan, họ chịu trách nhiệm trước khu vực bầu cử về công việc của mình. Như ở Anh, các đại biểu được bầu bởi cả thành phố là khác nhau.
Tất cả công dân của mỗi quận đều có thể bỏ phiếu để chọn đại biểu, trừ những người có địa vị quá thấp đến mức phải coi như không còn ý chí cá nhân (chẳng hạn như người mất trí).
Ở hầu hết các nước cộng hòa cũ đều có một cái dở, đó là nhân dân trực tiếp tham gia giải quyết các công việc của đất nước. Họ yêu cầu làm những việc mà họ không thể làm được.
Người dân chỉ nên tham gia vào các công việc của đất nước bằng cách chọn những người đại diện đủ tiêu chuẩn của họ để thực hiện công việc. Rất ít người hiểu đầy đủ mức độ cụ thể của mỗi người, vì vậy mỗi người có thể tin rằng người mà họ chọn đại diện khôn ngoan hơn những người khác.
Người đại biểu nhân dân không nên giải quyết những công việc cụ thể, vì họ không thể làm tốt được. Cơ quan đại diện của nhân dân chỉ nên làm luật và xem luật được thực hiện như thế nào. Làm tốt được thì không ai làm tốt được ngoài cơ quan đại biểu của nhân dân.
Trong một quốc gia, luôn có những người phân biệt chủng tộc, giàu nghèo hay tai tiếng. Nếu họ có cùng phiếu bầu như dân chúng nói chung, quyền tự do chung sẽ là nô lệ của họ, và họ sẽ không thiết tha bảo vệ quyền tự do đó, vì hầu hết các nghị quyết chung sẽ chống lại họ. Vì vậy, khi họ tham gia vào công việc lập pháp, họ phải có tỷ lệ cao tương ứng với vị trí ưu việt mà họ nắm giữ trong quốc gia. Như vậy, chúng sẽ tạo thành một cơ cấu riêng (trong hệ thống pháp luật); cấu trúc này có quyền đình chỉ các kế hoạch của người dân, giống như người dân có quyền đình chỉ các ý định của họ.
Như vậy, quyền lập pháp được quy về hai cơ cấu: một bên là đại diện của quý tộc, một bên là đại diện của nhân dân. Mỗi bên có quốc hội riêng để thảo luận riêng theo quan điểm và lợi ích của mình. Trong số ba quyền mà chúng ta nói đến, quyền tư pháp dường như không có; hai quyền lập pháp và hành pháp cần một quyền lập quy dung hòa; rằng cơ quan lập pháp của các quý tộc đã thực sự được tính toán để tạo ra hiệu ứng hài hòa.
Cấu trúc quý tộc phải cha truyền con nối, thứ nhất vì bản chất của nó, thứ hai vì nó phải bảo vệ những đặc quyền, những đặc quyền tự nó là đáng ghê tởm, luôn bị đe dọa, do đó chúng phải được bảo vệ.
Nhưng thế lực cha truyền con nối chỉ biết đến lợi ích của mình mà quên lợi ích của nhân dân; do đó phải có một lợi ích tối cao có thể làm tê liệt nó, chẳng hạn như luật tịch thu tiền. Bộ luật tối cao này cho phép nghị viện quý tộc chỉ tham gia vào công việc lập pháp với chức năng ngăn ngừa mà không có chức năng điều chỉnh.
Tôi gọi chức năng điều chỉnh là quyền ra lệnh hoặc sửa chữa cho chính mình những gì người khác đã ra lệnh. Tôi gọi chức năng ngăn chặn là quyền vô hiệu hóa các quyết định của người khác, giống như quyền của Tribune ở La Mã cổ đại. Và ai có quyền dừng thì có quyền phê duyệt, còn nếu đã phê duyệt thì không sử dụng quyền dừng nữa.
Quyền hành pháp phải nằm trong tay vua, vì quyền hành pháp bao giờ cũng phải tạm thời, một người làm còn hơn nhiều người nắm giữ; nó khác với quyền lập pháp được ban hành bởi nhiều người hơn là bởi một người.
Không có vua, quyền hành pháp sẽ được giao cho một số ít người trong cơ quan lập pháp, và do đó sẽ không có tự do; bởi vì quyền hành pháp và quyền lập pháp trở thành một, và những người này có thể kiểm soát cả hai.
Nếu cơ quan lập pháp không họp lâu để thảo luận bất cứ điều gì, thì cũng sẽ không có tự do; bởi vì điều đó sẽ xảy ra hai điều một: Hoặc là không có nghị quyết lập pháp, Nhà nước sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn. Hoặc các nghị quyết lập pháp cũ bị hành pháp nắm giữ và thao túng, dẫn đến sự chuyên chế.
Nếu cơ quan lập pháp họp suốt thì cũng vô ích. Điều này sẽ gây bất tiện cho đại biểu và khiến cơ quan hành pháp quá bận rộn để giải quyết việc thực hiện, chỉ lo bảo vệ quyền hạn chuyên môn của mình. Ngoài ra, nếu cơ quan lập pháp họp liên tục, thì chỉ có ý tưởng đưa các thành viên mới vào thay thế các thành viên đã qua đời của cơ quan lập pháp mới được xem xét, và trong trường hợp đó nếu cơ quan lập pháp sụp đổ thì sẽ không có biện pháp khắc phục. Khi cơ quan lập pháp này kế nhiệm cơ quan lập pháp kia, người dân sẽ có ý kiến không tốt về Nghị viện hiện tại, chỉ mong vào Nghị viện khóa sau, nhưng rồi kỳ họp nào cũng như vậy, người dân sẽ có khi thấy rõ cơ quan lập pháp đó là tham nhũng. không còn hy vọng vào pháp luật, họ sẽ phẫn nộ hoặc thờ ơ với công việc của đất nước. Nhà lập pháp không nên họp một mình. Cơ quan hành pháp cần được trao quyền quyết định thời gian, thời lượng các phiên họp của Nghị viện tùy theo tình hình xét thấy cần thiết. Cơ quan lập pháp chỉ được coi là có ý chí nếu nó đang trong phiên họp. Nếu có họp thì phải họp toàn thể, nếu không dân sẽ không hiểu đâu mới thực sự là cơ quan lập pháp - đâu là họp, đâu là họp sau.
Quốc hội có quyền gia hạn cho tôi không? Nếu Nghị viện có quyền tự đổi mới, thì cũng có thể nó sẽ không bao giờ tự đổi mới; sẽ rất nguy hiểm nếu Nghị viện phải tấn công cơ quan hành pháp.
Nếu cơ quan hành pháp không có quyền cản trở các ý định của cơ quan lập pháp, thì cơ quan lập pháp sẽ trở nên chuyên chế, trao cho mình mọi quyền lực và loại bỏ mọi quyền lực khác.
Nhưng quyền lập pháp không nên có chức năng cản trở quyền hành pháp; bởi vì quyền hành pháp có giới hạn về bản chất, nó luôn chỉ giải quyết các công việc tạm thời. Ở La Mã cổ đại, các quan tòa có quyền ngăn chặn cả cơ quan lập pháp và hành pháp. Đây là lỗi. Đây là nguyên nhân của những tai họa lớn.
Nhưng ở một đất nước tự do, nếu cơ quan lập pháp không có quyền bắt giữ cơ quan hành pháp, thì cơ quan lập pháp phải có chức năng xem xét việc thực hiện các luật ban hành như thế nào.
Mặt khác, mặc dù cơ quan lập pháp có chức năng kiểm soát nói trên nhưng vẫn không có quyền phán xét các cá nhân trong cơ quan hành pháp. Cá nhân người điều hành là bất khả xâm phạm, vì anh ta rất cần thiết cho quốc gia. Nếu cơ quan lập pháp vi phạm nó, nó sẽ trở thành chuyên chế, và do đó không còn tự do nữa. Mặc dù quyền tư pháp không nên được kết hợp với bất kỳ phần nào của quyền lập pháp, nhưng có ba trường hợp ngoại lệ dựa trên lợi ích duy nhất của người bị xét xử:
Đầu tiên là những nhân vật lớn thường bị ghen tị, nếu để trước mắt công chúng, họ rất dễ gặp nguy hiểm và họ không có đặc quyền được đồng nghiệp đánh giá. Do đó, một quý tộc không nên bị đưa ra xét xử trước một tòa án thông thường, mà chỉ trước một bộ phận của cơ quan lập pháp chỉ bao gồm các quý tộc.
Thứ hai, luật pháp đôi khi khôn ngoan, nhưng đôi khi mù quáng hoặc quá hà khắc; rằng các thẩm phán đọc các quy tắc một cách máy móc; Do đó, trong trường hợp này, cơ quan lập pháp quý tộc nên thực hiện quyền hạn của mình để điều chỉnh nó vì lợi ích của pháp luật, để khi bản án được tuyên án, luật xét xử sẽ bớt nghiêm khắc hơn.
Thứ ba, còn có một số cán bộ vi phạm quyền lợi của người dân, phạm tội mà không biết hoặc không muốn trừng trị. Tuy nhiên, nhà lập pháp nói chung không có tư cách phán xét, ngay cả khi ông ta là đại diện của nhân dân, đại diện cho một bên liên quan trong vụ việc; Trong trường hợp này, nhà lập pháp có thể đóng vai trò là người tố giác. Nhưng cơ quan lập pháp sẽ tố cáo trước cơ quan nào? Liệu nó có thể hạ mình trước một tòa án công lý thấp kém hơn quyền lập pháp? Trong trường hợp này, để giữ gìn danh dự của nhân dân và sự an toàn của cá nhân (kẻ gian ác), cơ quan lập pháp của nhân dân phải tố cáo với cơ quan lập pháp những quý tộc không cùng sở thích và ý đồ. .
Đây là ưu điểm của chế độ này (ở Anh) so với hầu hết các nước cộng hòa cũ, nơi thường xảy ra những lạm dụng: người dân vừa là người tố cáo vừa là người phán xét.
Như đã đề cập ở trên, cơ quan hành pháp phải thực hiện chức năng ngăn chặn để tham gia lập pháp, nếu không sẽ bị tước bỏ đặc quyền của mình. Nhưng ngược lại, nếu quyền lập pháp tham gia vào hành pháp (với chức năng ngăn chặn) thì quyền hành pháp sẽ bị thủ tiêu.
Nếu nhà vua tham gia lập pháp với chức năng làm luật thì sẽ không còn tự do nữa. Nhưng dù sao vua cũng phải tham gia lập pháp để bảo vệ mình nên chỉ tham gia với chức năng phòng ngừa.
Nguyên nhân của sự thay đổi chính quyền La Mã như sau: Thượng viện có phần hành pháp, các quan cai trị có phần lập pháp, nhưng không phần nào có quyền bắt giữ như dân chúng.
Đây là cấu trúc cơ bản của hệ thống chính trị mà chúng ta đang nói tới: Lập pháp có hai bộ phận ràng buộc với nhau bởi chức năng ngăn cản lẫn nhau. Hai bộ phận này bị ràng buộc bởi nhánh hành pháp, và nhánh hành pháp cũng bị ràng buộc bởi nhánh lập pháp.
Ba sức mạnh này, được liên kết với nhau, xuất hiện ở trạng thái tĩnh hoặc bất động. Tuy nhiên, vì tất yếu của vạn vật là vận động, nên ba lực luôn buộc phải tiến lên, mà tiến lên một cách nhịp nhàng.
Quyền hành pháp tham gia lập pháp chỉ với chức năng ngăn cản, không can thiệp vào việc thảo luận công việc, cũng như đưa ra khuyến nghị. Thật vậy, cơ quan hành pháp luôn có thể không tán thành một quyết định nào đó và bác bỏ một nghị quyết nào đó đã được thông qua trong một nghị quyết, nhưng cơ quan hành pháp không đồng ý. Ở một số nước cộng hòa cổ đại, khi nhân dân thành lập các nhóm để thảo luận về các vấn đề quốc gia, lẽ tự nhiên là cơ quan hành pháp cũng đưa ra các khuyến nghị và thảo luận với nhân dân; nếu không sẽ có sự hỗn loạn trong các nghị quyết, xa lạ với chính trị.
Nếu hành pháp quy định việc thu thuế mà không được sự đồng ý của người dân thì không còn tự do nữa, vì khi đó hành pháp trở thành nhà lập pháp ở điểm quan trọng nhất của cơ quan lập pháp.
Nếu nhà lập pháp quy định việc thu thuế vĩnh viễn thay vì hàng năm, thì cũng sẽ có nguy cơ mất tự do, vì quyền hành pháp sẽ không còn phụ thuộc vào quyền lập pháp. Và nếu chúng là những quy định của cơ quan lập pháp về các công việc của lục quân và hải quân thì hậu quả cũng sẽ như vậy, vì hải quân và lục quân phải được giao cho quyền hành pháp.
Để hành pháp không áp bức nhân dân, quân đội trong tay hành pháp phải là của dân, một lòng với dân, như trường hợp của La Mã cổ đại dưới thời Marius (nhà quân sự nổi tiếng của La Mã). Và để làm được điều này, chỉ có hai cách: hoặc những người nhập ngũ phải có tài sản để đảm bảo tính mạng trước những công dân khác và chỉ phục vụ trong thời hạn một năm như ở La Mã cổ đại; hoặc có một quân đội thường trực mà quân đội thuộc loại yếu nhất trong xứ, giao cho cơ quan lập pháp giải tán bất cứ lúc nào. Người lính thường trực này là của nhân dân, không có doanh trại, thành lũy nào ngăn cách với nhân dân.
Nội dung bài viết:
Bình luận