Việt Nam Là “Phong Kiến” Hay “Quân Chủ” Ở Thời Còn Vua Chúa?

1. Chế độ phong kiến ​​và chế độ quân chủ có gì khác nhau? 

 Không nói về sự khác biệt giữa  chế độ phong kiến, quân chủ Tây Âu và  chế độ phong kiến, quân chủ Đông Á, vì điều đó sẽ vượt ra ngoài phạm vi bài viết này. Ngoài ra, nhiều tác giả đã đề cập đến nó, như Histoire de la Chine của Nguyễn Hiến Lê (Éditions Générales, TP. Hồ Chí Minh. 2006) hay La Feudalité Chinoise của Granet (Editions Imago, Paris. 1981). Ở đây tôi muốn nói đến tướng lĩnh của các chế độ phong kiến ​​và quân chủ ở Đông Á. 

 Chế độ phong kiến ​​ở Trung Quốc được hình thành, theo bộ sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê, vào thời nhà Chu (khoảng 1111 - 221 TCN),  rồi nhà Tần sau khi thống nhất đất nước đã chấm dứt chế độ phong kiến. 

 Phong hầu 封  là Phong tước 封爵 và Kiến địa 建地, nghĩa là vua phong tước cho bề tôi (quan hoặc anh em, họ hàng, v.v.), lập nước. Người này trở thành  chư hầu của nhà vua. Cũng chính vì đất nước Trung Hoa lúc bấy giờ quá lớn, quá rộng, phương tiện giao thông còn thô sơ nên nhà vua phải chia ruộng đất cho bầy tôi và con cháu, hành động sáng suốt để  trị vì. Vùng đất này thuộc về chư hầu. Các chư hầu có quyền bán, tặng hoặc trao đổi đất đai vì mục đích công hoặc tư mà không cần  lệnh của nhà vua. Chưa kể chư hầu có quyền sở hữu nô lệ. Vào thời nhà Tần (221 -206), đường xá khá thông thoáng, rộng hẹp đủ loại nên Tần Thủy Hoàng nhận thấy chế độ phong kiến ​​chỉ mang lại hận thù và chiến tranh cho nhân dân nên đã chia rẽ. thổ lập huyện, châu và cử quan (quan) phụ trách cai quản. Thế nhưng chế độ phong kiến ​​Trung Quốc vẫn tồn tại, nhất là  những năm 1916-1949, với việc Viên Thế Khải xưng đế, để đất nước tan tác vào tay các sứ quân. Ai mạnh thì chiếm đất, ai  mạnh thì thu nô, như thời phong kiến. 

 Còn quốc vương thì chỉ có một người làm chủ và cai trị đất nước, người đó chính là vua. Vì  không  thể có mặt khắp nơi trong nước nên nhà vua cử các quan  trấn thủ các trấn, phủ, huyện, v.v... để thay  vua trị nước và giáo hóa nhân dân. Quan lại là quan lại, ăn lương của triều đình chứ không phải của các trấn, của phủ, huyện không phải của mình mà của  cả  nước. Cho nên, cơ sở của chế độ phong kiến ​​là chế độ quân chủ, nhưng nhiều địa chủ có đặc quyền, đặc lợi  lớn, rồi hiềm khích, đố kỵ lẫn nhau. Mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy làm, gây chiến tranh loạn lạc khắp nơi, khiến nhân dân khó yên ổn làm ăn mà phải phục dịch, tòng quân,  chết đói, chết rét. Một chế độ đáng bị xóa bỏ. 

 2. Nước  ta có chế độ phong kiến ​​Việt Nam không? 

quân chủ và phong kiến
quân chủ và phong kiến

Nước Việt Nam chúng ta, trước các triều đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn và các nước Cộng hòa, tuy “khai quốc”, tuy mang dấu ấn rõ rệt, khác hẳn Trung Hoa, nhưng chúng ta “thuộc về phương Bắc”. hơn 1.000 năm, bất chấp các cuộc khởi nghĩa Bà Triệu, Bà Trưng hay Lý Bôn. Chính Ngô Quyền đánh quân Nam Hán vì tư thù cá nhân năm 938 đã chấm dứt  ách lệ thuộc Trung Hoa của nước ta. Nền tự chủ hoàn toàn của nước ta bắt đầu từ đó. Nhưng ngay sau đó, do tính tự chủ  còn non nớt, rồi rơi vào cõi trời sinh con, nên sự hỗn loạn của 12 Sư Quân đã ra đời. Mãi đến năm 1010, Thái Tổ Lý Công Uẩn mới dựng nên một quốc gia thực sự,  có nền quân chủ, kỷ cương, chính thể, văn hiến, từ đó đặt nền móng cho nước ta. Chế độ quân chủ tự chủ của Việt Nam  tồn tại từ năm 1010  đến năm 1945,  sau đó là  chính sách Cộng hòa. 

 

 

 Khải Định Niên Chế là gươm lệnh của vua Bảo Đại.  .  Khải Định Niên Chế là thanh bảo kiếm được vua Bảo Đại trao  cho chính phủ lâm thời  Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 30 tháng 8 năm 1945 sau khi thoái vị. Việc trao gươm (có ấn vàng) đánh dấu sự kết thúc của triều  Nguyễn cũng như chế độ quân chủ ở nước ta.  Trong các Triều Đại Việt Nam, ta thấy các vua có phong tước cho các công thần hay cho con cháu, nhưng đó chỉ là những phần thưởng danh dự, chứ không có ban đất đai cho ai bao giờ, như trong chế độ Phong Kiến. Lý Thường Kiệt được phong là Việt Quốc Công, Trần Quốc Tuấn được phong là Hưng Đạo Vương, vì các vị có công rất lớn với Quốc Gia. Có chăng, các vị được vua ban cho một mảnh đất nhỏ để xây nhà ở, mà theo điển lễ gọi là Phủ, thế thôi. Sau nầy có các công thần lớn, cũng vậy, như Văn Trinh Công Chu Văn An, Dĩnh Thành Hầu Lê Quý Đôn… 

 

 Dưới triều Nguyễn, đôi khi lấy tên, rồi thêm một vài mỹ tự mà phong cho các công thần, như các cụ Thành Tín Hầu Trần Văn Thành, Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại, hay lấy tên huyện, tên phủ mà phong, như hai nhà thơ mà nhiều người biết đến là Tùng Thiện Vương Miên-Thẩm, Tuy Lý Vương Miên-Trinh, hay như Anh Sơn Quận Công Hồng-Phi (sau khi mất, được phong tặng Vĩnh Quốc Công), Gia Hưng Vương Hồng-Hưu… Huyện Tùng Thiện thuộc phủ Vĩnh Tường (Sơn Tây), huyện Tuy Lý thuộc phủ Hàm Thuận (Khánh Hòa), phủ Anh Sơn là một trong sáu phủ của tỉnh Nghệ An, phủ Gia Hưng là một trong bốn phủ của tỉnh Hưng Hoá… Tôi chắc là các hoàng tử Miên-Thẩm, Miên-Trinh, Hồng-Phi, Hồng-Hưu, cả đời chưa bao giờ bước chân đến hai huyện Tùng Thiện, Tuy Lý, hai phủ Anh Sơn, Gia Hưng, nói chi đến chuyện được ban cho đất đai như dưới chế độ Phong Kiến ! Có chăng thì cũng được cho một miếng đất nhỏ để xây phủ. Phải nói ngay, là có những phủ, con cháu phải mua đất lấy, để xây phủ mà thờ Ông Bà, nhất là phủ của các hoàng tử không con. Sau khi chết, con  cháu của các hoàng thân, huynh đệ xin lên làm người thừa tự hoặc cháu ngoại và phải mua đất lập miếu thờ, chẳng hạn như Phú Vinh Quốc Công.  

 Cao Thế Dung, tác giả  nhiều  sách viết về lịch sử Việt Nam cận đại, cho rằng chế độ quân chủ Việt Nam là chế độ “Tôn quân tập truyền”. Một số người cho rằng như vậy là hơi quá, nhưng thực sự  không phải vậy. Lý Thái Tổ, Lê Thái Tổ, Nguyễn Thế Tổ... lên ngôi vua, hoặc do triều đình Cựu Lê (1010), hoặc do các tướng phản Minh (1418), hoặc do các bề tôi cũ của Chúa Nguyễn ( 1777).... Ngoài ra, việc chọn vua kế vị cũng rất cẩn thận, không phải con trưởng đương nhiên kế vị vua cha. Thái tử được Nhà vua đề cử thế vị phải được sự đồng ý của Thái hậu, Thái hậu (nếu còn sống), Hoàng thất (anh em, huyết thống với Nhà vua), Hoàng tộc. . Bởi theo quan niệm của người xưa, vua phải hiền, phải có tài, phải có đức thì  nước mới  thịnh,  dân mới yên ấm. 

 

 Vào thời “Trịnh, Nguyễn phân tranh”, trên lý thuyết,  chúa Trịnh, chúa Nguyễn đều là “quân thần” của vua Lê. Nhưng trên thực tế, các chúa Trịnh lấy danh nghĩa vua Lê mà cai trị cả “Bắc Kỳ”, các chúa Nguyễn hoàn toàn không phụ thuộc trực tiếp hay gián tiếp vào vua Lê. “Đàng Trong” do các chúa Nguyễn khai phá, ít nhất là từ Phú Yên đến mũi Cà Mau, phần đất trước đây không thuộc  Đại Việt, do nhà Lê hoặc các triều đại trước cai trị. Lúc bấy giờ, “Bắc Kỳ” và “Nội Việt” được coi là hai quốc gia độc lập riêng biệt. Vậy “Trịnh, Nguyễn phân tranh” không phải là  chế độ phong kiến ​​của Đại Việt. 

 Chế độ quân chủ xưa của Việt Nam, dưới bất kỳ  triều đại nào, kể cả  thời kỳ “Nam Kỳ, Đàng Ngoài” đều không  có chế độ chiếm hữu nô lệ.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo