TÌM HIỂU VỀ MÔ HÌNH NHÀ NƯỚC TẬP QUYỀN THÂN DÂN DƯỚI TRIỀU LÝ, TRẦN

Lê Quý Đôn (1726 - 1784)  từng đánh giá: “Miền Nam của hai triều Lý, Trần đều có tiếng là văn hiến”. Sự thật lịch sử đã chứng minh, việc Lý Công Uẩn lên ngôi, lập nước Đại Việt, đánh dấu một bước ngoặt, đưa đất nước bước sang một thời kỳ mới: thời kỳ văn hiến Đại Việt với nhiều thành tựu trên các lĩnh vực: văn hóa, quân sự... 

quân chủ tập quyền thân dân
quân chủ tập quyền thân dân

 

 Trải qua 3 thế kỷ, nhà Lý, nhà Trần đã xây dựng nhiều công trình kiến ​​trúc vĩ đại, lãnh đạo nhân dân ta giành những thắng lợi vẻ vang:  thắng Chiêm Thành (1069), thắng Tống (1075), 3 lần thắng Nguyên Mông. 1258, 1285, 1287 -1288). Trên cơ sở những thành tựu đó, cần khẳng định vai trò quan trọng của mô hình quản lý nhà nước dựa vào nhân dân: Nhà nước tập trung là vì dân.  

 Alvin Toffer (1928 - 2016) đã tổng kết trong các nghiên cứu của mình: nhà nước dựa vào ba quyền lực chính: quyền lực kinh tế (nghĩa là có quyền lực kinh tế mạnh và  quyền lực kiểm soát, chi tiêu các phân phối kinh tế); Quyền lực độc đoán (quyền lực dựa trên các công cụ độc đoán: hệ thống  pháp luật, quân đội, công an đầy đủ và đồ sộ); Sức mạnh của sự ủng hộ của công chúng. Sự khác biệt giữa các chính phủ nằm ở vị trí của ba quyền lực. Các triều đại Lý-Trần không phải là những chính quyền mạnh về kinh tế. Mặt khác, tuy lập được nhiều chiến công hiển hách nhưng nhìn chung chưa phải là chính quyền mạnh về lực lượng vũ trang chính quy (nhất là khi so  với chính quyền quân phiệt dưới các triều đại Đinh - Tiền Lê trước đây). Mô hình nhà nước thời Lý - Trần được coi trọng là có một chính quyền trung ương mạnh vì nó dựa  trên  sự ủng hộ của quần chúng, sự ủng hộ của làng xã. Hội nghị Diên Hồng là một điển hình của “lòng dân” trong điều hành đất nước thời Lý - Trần. Việc lựa chọn mô hình nhà nước hợp  lòng dân  bắt đầu từ việc Lý Công Uẩn dời đô từ Thăng Long về Hoa Lư, sau đó nhà Lý  tiến hành cải cách quân sự gắn  với cải cách bộ máy chính trị. Bộ máy cai trị đã trở nên văn minh với sự xuất hiện của các  Thái úy, Thái bảo, Thiếu bảo và các cơ quan chuyên trách. Các địa phương bãi bỏ các đạo, chia thành lộ, phủ, châu - huyện, xã. Làng  giữ vai trò trung tâm trong  đơn vị hành chính thời Lý - Trần. Làng - xã  thời Lý - Trần là của dân, do dân cai trị. Nhà Lý luôn củng cố và tạo lập mối quan hệ hài hòa  giữa nhà nước và làng xã, không can thiệp vào việc quản lý  làng xã, thực hiện chính sách  thân dân.  

 Chính sách “ngụ binh” được nhà Lý thực hiện rất thành công. Nhà Lý hàng năm xét tuyển người, đào tạo bằng kinh phí tự túc và cho phép về quê tu luyện. Nhà nước vẫn có  hậu phương lớn nhưng vẫn không phá vỡ sức sản xuất ở các làng xã.  Chính sách mềm mỏng được các triều đại Lý - Trần áp dụng đối với miền núi nơi có đồng bào dân tộc thiểu số cư trú. Đặc điểm của  nước ta là những vùng xung yếu cần củng cố để phòng thủ đều nằm trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nhà nước củng cố mối quan hệ, tạo sự gắn bó với bộ phận dân cư ít ỏi thông qua vai trò của tù trưởng. Hình thức phổ biến là gả công chúa cho các tù trưởng. 

  Sự tồn tại của “tam giáo đồng quy” là thể hiện sự điều độ trong pháp trị của nhà nước thân dân. Nhà Lý coi trọng Phật giáo, lập triều đại có sự đóng góp của  Phật giáo nhưng các vua Lý luôn chọn Nho giáo làm công cụ  duy trì chính quyền. Đạo giáo - Phật giáo - Nho giáo tồn tại  hài hòa trong xã hội, kết hợp và đan xen lẫn nhau. 

  Về pháp luật, tuy đến nay chưa có cơ sở nghiên cứu, nhưng trong các truyện nói đến thời Lý, Trần biên soạn minh thư “khi  áp dụng vào dân chúng, rất thiết thực”. Có thể thấy rằng các quy định và pháp luật của các bộ  thư này lấy lòng khoan dung làm chủ đạo. 

 Các triều đại nhà Lý, nhà Trần đã  thành công rực rỡ với mô hình nhà nước này. Tuy nhiên, khi những điều kiện quan trọng nhất không được đáp ứng, sự sụp đổ của mô hình này là điều khó tránh khỏi. Thứ nhất, chính quyền thân dân cần duy trì chính sách nhất quán là luôn củng cố quan hệ làng - nông thôn. Trong thời chiến, khi các lợi ích thống nhất với nhau, mối quan hệ này rất bền vững, nhưng trong thời bình, chính quyền phong kiến ​​bắt đầu chăm lo cho đặc quyền và lợi ích của mình, không  giữ được tư cách của nhân dân. Vấn đề thứ hai, một Nhà nước dựa vào làng xã thì xã hội làng xã phải tương đối thuần nhất. Trên thực tế, sự phát triển của lịch sử khiến làng quê Việt Nam không như vậy, xuất hiện ngày càng nhiều, bộc lộ những mâu thuẫn không thể cứu vãn. Khi nhà Trần cho phép quý tộc chiêu mộ dân lập đồn điền, quý tộc củng cố quyền lực  bằng cách biến  nông dân thành nông nô. Sự hòa hợp giữa làng và quê giờ giảm xuống mức thấp nhất. Mặt khác, nhà Trần vì lợi ích kinh tế đã khuyến khích tư hữu phát triển  dẫn đến phá vỡ sự bình đẳng tuyệt đối về kinh tế trong làng xã. Kết quả là, hỗn loạn  xảy ra sau đó, chính quyền trung ương suy yếu và các cuộc nổi dậy của nông dân nổ ra. Những biện pháp cải cách sau đó của Hồ Quý Ly  khẳng định chính quyền trung ương không còn dựa vào dân được nữa mà phải thông qua biện pháp hành chính. Mọi mô hình nhà nước tồn tại trong lịch sử đều có nguyên nhân của nó. Sự thành công hay thất bại của các mô hình nhà nước cho chúng ta những bài học  quý giá ngày nay.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo