1. Bộ máy quan liêu là gì?

Khái niệm “quan liêu” không còn xa lạ với cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Trước đây, khái niệm này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích như sau:
Quan liêu là “bệnh giấy tờ, bệnh hình thức, thiếu thực tế, xa rời quần chúng, không phục tùng quần chúng, không chấp hành chính sách của chính phủ và công đoàn”.
Quan liêu là quan chức phụ trách xa rời thực tế, không đi đến tận cùng công việc, không kiểm soát được gì và nói chung là lãnh đạo. Quan liêu là xa quần chúng, không hiểu lai lịch, tư tưởng và công tác của cán bộ, không lắng nghe ý kiến của quần chúng, ngại phê bình và tự phê bình. Hành vi của cán bộ mắc bệnh quan liêu là thiếu dân chủ, không thực hiện nghiêm nguyên tắc lãnh đạo tập thể và phân công phụ trách.
Theo Hồ Chí Minh, người công chức mắc bệnh quan liêu còn có những biểu hiện như: “Đối với công việc thì hình thức mà không xem xét mọi mặt, không đi vào chiều sâu. Họ chỉ biết mở họp, viết chỉ thị, đọc báo cáo trên giấy mà không kiểm tra đến cùng. Khi thực hiện công việc của mình, giao nhiệm vụ cho cấp dưới mà không biết cách kiểm tra thì sẽ không có điều kiện giải thích, hướng dẫn, đôn đốc cấp dưới, không kịp thời phát hiện, chấn chỉnh hoặc xử lý vi phạm dẫn đến làm việc kém hiệu quả, gây thiệt hại đến tài sản, tiền của, công sức của nhà nước và nhân dân. Như vậy, bệnh quan liêu được dùng cho những cán bộ, đảng viên, quan chức có thái độ hoặc hành vi cửa quyền, độc đoán, thay vì giải thích, tuyên truyền. Trong công việc không bám sát thực tế, không theo dõi, giáo dục nhân viên. Hơn hết là có những người làm việc kém hiệu quả, đưa ra những chính sách tồi. Căn bệnh quan liêu để lại hậu quả hết sức nghiêm trọng ảnh hưởng đến cả bộ máy và nhân dân.
2. Bệnh quan liêu và giải pháp khắc phục bệnh quan liêu:
Thứ nhất, bệnh quan liêu thể hiện qua các yếu tố sau:
Một, về bản chất
Quan liêu là sự tha hóa quyền lực của các cơ quan công quyền. Sự tha hóa này biểu hiện chủ yếu ở bên ngoài ở hiện tượng giấy tờ, bộ máy rườm rà, nhiều tầng nấc, còn bên trong là tâm lý tham, hám thành tích, hám danh, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lợi dụng sơ hở. Trong quản lý. cơ chế vụ lợi, dẫn đến lạm quyền, lạm quyền.
Căn bệnh quan liêu mà đặc điểm chủ yếu là “quan liêu”, xa rời quần chúng, xa rời thực tế, xa rời cuộc sống, chỉ chú ý đến hình thức, không chú ý đến bản chất của sự việc, áp dụng lối hành chính mệnh lệnh thay vì khoa học. phương pháp làm việc. Nhìn chung, cách làm việc như vậy thường không quan tâm đến hiệu quả công việc.
Nhân tố thường xuyên tác động đến tổ chức, bộ máy và năng lực cán bộ là nạn quan liêu. Chính căn bệnh này đã làm tê liệt bộ máy, vô hiệu hóa bộ máy, làm xói mòn đạo đức của một số cán bộ, đảng viên, làm rạn nứt mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng, nhân dân hiểu sai về vai trò lãnh đạo của Đảng, bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. - Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Suy cho cùng, căn bệnh quan liêu một khi đã ngấm vào đội ngũ cán bộ, đảng viên sẽ là nguyên nhân của mọi trì trệ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội hiện nay.
Một trong những nguyên nhân của bệnh quan liêu là mất dân chủ, không thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; Chủ nghĩa cá nhân vẫn tồn tại trong một số cán bộ, công chức.
Quan liêu là từ chỉ những con người, những cơ quan lãnh đạo từ trên xuống dưới, xa rời thực tế, không có gì sâu sắc, chỉ có tổng thể. Đối với công việc, hình thức là quan trọng, chỉ mở đầu cuộc họp, hình dung báo cáo trên giấy, không kiểm tra cho đến khi kết thúc.
Hai là, biểu hiện của bộ máy quan liêu
Tránh xa thực tế
Hồ Chí Minh chỉ rõ “Cán bộ quan liêu là cán bộ phụ trách xa rời thực tế, không điều tra nghiên cứu tận nơi, nơi làm việc, không nắm vững mọi việc, chỉ đạo chung chung”. Trang trọng, không biết khai mạc cuộc họp, phát biểu chỉ đạo, xem báo cáo trên giấy
Chính vì xa rời thực tế nên những người mắc bệnh quan liêu chỉ biết viết báo cáo, đọc báo cáo trên giấy mà không chịu kiểm tra thực tế.
Hô khẩu hiệu, làm qua loa, lời nói không đi đôi với hành động
Theo lời Bác Hồ, ông là người làm quan, "gặp dân thì đút tay vào túi quần 'dạy dỗ', nói hàng giờ, nói chuyện trời đất. Nhưng những việc thiết thực, bức xúc của địa phương, việc dân chúng đòi hỏi, thì ta không làm". không nói chuyện."
Xa rời quần chúng, mệnh lệnh cứng nhắc
Người viết: “Quan liêu là xa rời quần chúng, không đi sâu, đi gần”, “những kẻ thừa hành, suốt đời quanh quẩn ở cơ quan.
Chủ quan, tự mãn
Bác chỉ rõ, cán bộ mắc bệnh quan liêu là luôn tự mãn, chủ quan, cho rằng mình cái gì cũng hiểu, cái gì cũng biết nên không nghe dân, không hỏi dân, đóng cửa làm việc nên việc gì cũng chẳng mang lại. bất kỳ lợi ích. . ích kỷ, cách cư xử
Theo Hồ Chí Minh, quan lại khi phụ trách vùng nào thì như một ông vua con, ở đó họ được tự do độc đoán và đức độ. Tinh thần của một vị tướng và một nữ tướng làm việc cho cấp dưới, đoàn thể xa cấp dưới, đoàn thể xa dân.
Thứ hai, bộ máy hành chính
Bộ máy quan liêu là một thuật ngữ dùng để chỉ 1) một nhóm quan chức chính phủ không qua bầu cử và 2) một nhóm người hoạch định chính sách hành chính. Về mặt lịch sử, bộ máy quan liêu là cơ quan quản lý của chính phủ được quản lý bởi các phòng ban với các quan chức không liên quan đến bầu cử. Ngày nay, bộ máy quan liêu là hệ thống hành chính điều hành bất kỳ tổ chức lớn nào. Hành chính công ở nhiều quốc gia là một ví dụ về bộ máy quan liêu.[3]
Thứ tư, những tiêu cực và tích cực của bộ máy quan liêu
Khi xem xét một cách khách quan và toàn diện thì mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới vật chất này đều có mặt tích cực và tiêu cực. Bộ máy quan liêu cũng không ngoại lệ, bao gồm:
Một, điểm tích cực của bộ máy hành chính
– Có thể vận hành và quản lý một tổ chức lớn dựa trên các quy tắc: Nhiều cơ quan ngang nhau có thể dựa vào các quy tắc này để hoạt động theo cùng một cách.
Việc có đầy đủ cơ sở giám sát, phân cấp quản lý sẽ giúp khách hàng, người dân khiếu kiện lên cấp cao hơn.
Hai, mặt trái của bộ máy quan liêu
– Hoạt động kém hiệu quả gây lãng phí lớn
– Thông tin giữa các cơ quan, cấp có thể bị sai lệch
- Điều tương tự có thể cần phải được thực hiện lặp đi lặp lại giữa các cấp độ hoặc cấp độ
– Trong quá trình truyền tải thông tin, các cơ quan, cấp bậc dễ rơi vào tình trạng méo mó, thiếu chính xác. Thủ tục, giấy tờ cũng là rào cản, tốn thời gian và nhàm chán. - Bộ máy quan liêu cũng thường chậm thay đổi khi có điều gì mới hoặc chậm triển khai thay đổi
3. Thực nghĩa của từ Quan liêu:
Trong từ “quan liêu” thì từ quan liêu cũng có nghĩa là tiếng quan. Từ này đã được sử dụng từ thời phong kiến ở Việt Nam và Trung Quốc với ý nghĩa mọi người cùng làm việc với nhau, vai vế ngang nhau. Thêm vào đó là khái niệm “quan liêu” để chỉ phương thức tuyển dụng công chức trên cơ sở thi cử và kết quả.
Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, xã hội châu Âu đã trải qua những thay đổi căn bản, đặc biệt là ở Pháp và Đức. Sự thay đổi căn bản của xã hội đã kích thích sự ra đời của nhiều lý thuyết về xã hội. Max Weber - nhà xã hội học và kinh tế chính trị học nổi tiếng người Đức đã đề xuất một loạt khái niệm then chốt cho xã hội học tổ chức, trong đó có khái niệm “bộ máy quan liêu”. Từ quan liêu được tạo thành từ hai yếu tố: "văn phòng" chỉ một văn phòng làm việc hoặc một cơ quan chính phủ; và "cracy" có nghĩa là chính phủ, chế độ (giống như chế độ dân chủ).
Như vậy Bureaucracy nếu dịch một cách đơn giản có nghĩa là bộ máy quan liêu. Được dịch sang tiếng Việt là "quan liêu", từ này trong suy nghĩ của Max Weber là một cơ cấu bổ nhiệm hành chính, một hệ thống các vị trí và nhiệm vụ được xác định rõ ràng, một hệ thống quyền lực chính xác và có thứ bậc thúc đẩy sự phân chia công việc và chuyên môn hóa. Theo đó, từ “quan liêu” ở đây là một tính từ trung tính chứ không hề mang nghĩa xấu như trong cách nói thông dụng hiện nay mà chúng ta vẫn thường hiểu.
Hiểu được bệnh quan liêu là gì và những biểu hiện của căn bệnh này là điều tối quan trọng. Đối với chúng tôi, đây là bí quyết để ngăn chặn tiêu cực trong công việc và trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra, hãy thật ý thức và rèn luyện để xây dựng nhân cách của bản thân, nói không với bộ máy quan liêu hiện nay.
Nội dung bài viết:
Bình luận