Chế độ quân chủ hạn chế

 Chế độ quân chủ là hình thức nhà nước trong đó nhà vua là người nắm giữ quyền lực, mọi quyền lực trong nước đều thuộc về nhà vua. Có chế độ quân chủ tuyệt đối và chế độ quân chủ hạn chế. Chế độ quân chủ hạn chế còn được gọi là chế độ quân chủ lập hiến. Quân chủ lập hiến là hình thức tổ chức nhà nước trong đó có vua nhưng phần lớn không nắm thực quyền, quyền lực thường nằm trong tay Quốc hội đứng đầu là Thủ tướng của Đảng chiếm đa số ghế. 

quân chủ hạn chế là gì
quân chủ hạn chế là gì

1. Khái niệm quân chủ 

 Chế độ quân chủ là một hình thức chính trị phổ biến thường thấy ở các nhà nước chiếm hữu nô lệ, các nhà nước phong kiến ​​và ở một  mức độ hạn chế là cả các nhà nước tư sản. Đặc điểm tiêu biểu của chế độ quân chủ là quyền lực tối cao trong  nhà nước thuộc về một người là vua. Vua lên ngôi (lên ngôi) thường theo nguyên tắc cha truyền con nối - “con vua nối ngôi”. Vua được coi là thiên tử - con của trời, “trời hành theo ý trời”, thay trời trị dân hay làm người, vua được coi là người lãnh sứ mệnh cai trị dân của trời và cũng là người chịu trách nhiệm trước trời, trước chúa. , đối với nhân dân, nhà vua không chịu  trách nhiệm pháp lý. 

 Chế độ quân chủ hạn chế 

 Có sự khác biệt giữa chế độ quân chủ tuyệt đối và chế độ quân chủ hạn chế. Các chế độ quân chủ chuyên chế thường tồn tại ở các quốc gia phong kiến ​​và sở hữu nô lệ, do hoàng đế cai trị, các quận  do  quan lại do triều đình chỉ định và cả nước nằm trong một đế chế tập quyền hoặc đại hoàng đế. Quyền lực của nhà vua là vô hạn và điều đó được khẳng định chính thức trong sổ quân lệnh: nhà vua là nhà quân chủ chuyên chế, có  quyền lực và uy quyền đối với đất nước và lãnh thổ của mình. 

 

  2. Nội dung của Chế độ quân chủ 

 Hình thức quân chủ phổ biến nhất hiện nay là  quân chủ lập hiến. Kết quả là mọi quyền lực, mọi hoạt động chi phối  trong xã hội không còn tập trung trong tay vua hay hoàng hậu. Vua hay  hoàng hậu chỉ là người lãnh đạo tinh thần. Mọi quyền lực và sự kiểm soát các hoạt động của xã hội đều do quốc hội chỉ đạo và thủ tướng do nhân dân bầu ra. 

 Chế độ quân chủ là một trong những hình thức  lâu đời nhất của chính phủ và  nhiều hình thức khác nhau cùng tồn tại. Chế độ quân chủ là  hình thức nhà nước trong đó nhà vua là người nắm giữ quyền lực, mọi quyền lực trong nước đều thuộc về nhà vua. Có chế độ quân chủ tuyệt đối và chế độ quân chủ hạn chế.  

3. Chế độ quân chủ hạn chế 

 Chế độ quân chủ hạn chế còn được gọi là chế độ quân chủ lập hiến. Quân chủ lập hiến là  hình thức tổ chức nhà nước  trong đó có vua  nhưng  phần lớn không nắm thực quyền, quyền lực thường nằm trong tay Quốc hội đứng đầu là Thủ tướng của Đảng chiếm đa số ghế. 

 

 Chế độ quân chủ hạn chế thường thấy ở các nhà nước tư sản, ra đời trên cơ sở thỏa hiệp giữa giai cấp tư sản và  quý tộc phong kiến, khi giai cấp tư sản chưa đủ mạnh để lật đổ chế độ phong kiến, do đó tầng lớp quý tộc quan liêu  còn nắm quyền và đôi khi bị lợi dụng. của tâm lý tôn trọng uy quyền, uy tín của nhà vua để thỏa hiệp, duy trì một phần  đặc quyền, đặc lợi; Cũng có trường hợp trước tinh thần mạnh mẽ của đông đảo quần chúng nhân dân, giai cấp tư sản và  quý tộc tìm đến sự thoả hiệp là khả năng bóp chết quần chúng, thống nhất để duy trì chế độ quân chủ hạn chế, hạn chế quyền hành của nhà vua. quyền lực. quyền lực bởi một hiến pháp, cũng  thường được gọi là một chế độ quân chủ lập hiến.  

 

 Hầu hết các quốc gia theo chế độ quân chủ ngày nay đều theo chế độ quân chủ lập hiến hoặc quân chủ nghị viện, quân chủ cộng hòa. Vua (hay hoàng hậu) là nguyên thủ quốc gia nhưng  mang tính tượng trưng hơn là thực chất. Hoạt động lập pháp do quốc hội thực hiện, hoạt động hành pháp do Thủ tướng thực hiện và hoạt động tư pháp do tòa án thực hiện (tam quyền phân lập). 

  Các quốc gia thuộc Khối thịnh vượng chung không có vua hay nữ hoàng riêng mà coi Vua Anh hoặc Nữ hoàng Anh là quốc vương chung của mình và ở mỗi quốc gia này đều có một Toàn quyền thay mặt cho chế độ quân chủ của Quốc gia Anh. 

 Ở các công quốc như Luxembourg, Monaco, Andorra, Liechtenstein, người đứng đầu là Đại công tước hoặc Hoàng thân, Hoàng tử. Ở Malaysia và Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất vẫn tồn tại hình thức  tiểu vương quốc. Hiện nay, không chỉ Vương quốc Anh mà nhiều quốc gia khác trên thế giới, tuy tên gọi là nhà nước quân chủ nhưng lại được coi là nhà nước dân chủ, chẳng hạn nhà nước Tây Ban Nha, Bỉ, Hà Lan Bas, Đan Mạch, Luxemburg, Thụy Điển ở Châu Âu hoặc Nhật Bản ở Châu Á.  

 

 4. Phân loại quân chủ hạn chế 

 Các chế độ quân chủ hạn chế được phân thành hai loại:  chế độ quân chủ kép và chế độ quân chủ nghị viện. 

 Chế độ quân chủ nghị viện là một hệ thống trong đó nguyên thủ quốc gia (nhà vua, quốc vương, hoàng đế) được thành lập theo nguyên tắc kế vị. Ở các quốc gia có chế độ quân chủ hạn chế, quyền lực tối cao của nhà nước thuộc về quốc  vương, được gọi là nguyên thủ quốc gia, và một cơ quan khác, quốc hội. Quân chủ  nghị viện là kiểu tổ chức phổ biến hiện nay ở các nước tư bản phát triển như Anh, Nhật Bản, Bỉ v.v. và ở một số nước đang phát triển như Thái Lan, Campuchia, v.v. Chế độ này phát triển theo nguyên tắc tam quyền phân lập. , trong đó nguyên tắc phân chia quyền lực tối cao là của Nghị viện trước quyền hành pháp được thừa nhận. Các bộ trưởng  chịu trách nhiệm trước Nghị viện (hạ viện). Việc thành lập chính phủ nằm trong tay đảng chiếm đa số ghế trong hạ viện. Nhà vua hầu như không tham gia vào việc giải quyết các công việc của nhà nước. Tức là vua hay  hoàng hậu là nguyên thủ quốc gia nhưng về mặt quyền lực thì chỉ mang tính  tượng trưng, ​​đại diện cho truyền thống gia đình và sự thống nhất của dân tộc. Nghị viện có quyền bãi nhiệm công chức có hàm bộ trưởng (Hiến pháp Đan Mạch, Na Uy, Bi...). Tổ chức chính thể quân chủ đại nghị ở các nước đang phát triển không hoàn toàn giống như ở các nước tư bản phát triển. Theo truyền thống lịch sử,  vua cũng có ảnh hưởng  lớn đến đời sống chính trị của nhà nước (như Thái Lan, Nepal, Malaysia...). 

 

 Chế độ quân chủ kép: Trong hình thức chính phủ này, nguyên tắc tam quyền phân lập được áp dụng ở một mức độ nào đó, tức là  có sự phân chia giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp. Quyền lập pháp là trên danh nghĩa, nó sẽ thuộc thẩm quyền của Nghị viện, trong khi quyền hành pháp  thuộc về Nhà vua, Nhà vua có thể thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua Chính phủ do Nhà vua thành lập.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo