Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam là đất nước đang trong thời kỳ đổi mới nên việc xây dựng cơ sở vật chất tiên tiến, hiện đại là vô cùng quan trọng và không thể thiếu. Quá trình xây dựng này gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất. Chúng tồn tại không thể tách rời và tác động qua lại lẫn nhau. Nhận thức được tầm quan trọng của các yếu tố trên, trong bài viết này, Luật ACC xin gửi tới quý khách hàng chủ đề bài viết "Vai trò của phương thức sản xuất là gì? Nêu ví dụ minh họa".
Phương thức sản xuất là gì ? Ví dụ?
Như chúng ta đã biết, hoạt động sản xuất vật chất là hình thức cơ bản đầu tiên của thực tiễn. Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và của xã hội loài người. Là hoạt động trong đó con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải và những điều kiện thiết yếu để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình và xã hội. Ngày nay, hoạt động sản xuất vật chất đóng vai trò quan trọng không chỉ trong việc phát triển nền kinh tế mà còn góp phần làm cho xã hội ngày càng văn minh, hiện đại. Hiện nay, để có thể đáp ứng nhu cầu của con người trên thế giới, hàng hóa được sản xuất ra nhiều hơn bằng các phương thức khác nhau, nơi sản xuất được tập trung và đầu tư nhiều hơn cho sản xuất. .
1. Khái niệm phương thức sản xuất
Trước khi tìm hiểu cụ thể về phương thức sản xuất và vai trò của nó, chúng ta phải hiểu rõ những nội dung liên quan đến phương thức sản xuất vật chất. Từ xa xưa, con người và xã hội loài người đã hình thành và phát triển trong quá trình sản xuất vật chất. Do đó, lịch sử xã hội trước hết là lịch sử sản xuất vật chất. Vì vậy, khi nghiên cứu các hiện tượng xã hội, sản xuất ra của cải vật chất là xuất phát điểm để phát hiện ra các quy luật vận động và phát triển khách quan của xã hội.
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên nhằm biến đổi các dạng vật chất của tự nhiên thành của cải phục vụ cho đời sống xã hội. Nó là hoạt động cơ bản, nền tảng và quyết định đối với sự phát triển và tồn tại của xã hội, là sự khác biệt cơ bản giữa con người và động vật, là tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại và phát triển của loài người. Trong quá trình sản xuất vật chất, con người sáng tạo ra tư liệu sinh hoạt để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội với tất cả sự phong phú và phức tạp của đời sống con người. Chính trong quá trình đó, con người đã từng bước cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính mình.
Để giải quyết đúng đắn các vấn đề của đời sống xã hội, cần phải tìm ra nguyên nhân cuối cùng của nó từ thực trạng phát triển của nền sản xuất vật chất của xã hội đó, mà căn bản là từ trình độ phát triển của nền sản xuất đó - cái quyết định toàn bộ nền sản xuất - xã hội. đời sống kinh tế của một xã hội nhất định.
Sản xuất vật chất được thực hiện bằng những phương thức sản xuất nhất định. Theo định nghĩa của Cẩm nang triết học, Mac-Lênin giải thích phương thức sản xuất là gì như sau: “Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản xuất vật chất trong những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người”.
Theo đó, trong quá trình sản xuất của mình, con người có những cách thức khác nhau để sản xuất ra của cải vật chất. Chính những khác biệt đó đã tạo nên những đặc điểm riêng cho từng loại hình xã hội (xã hội cộng sản nguyên thủy, xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản chủ nghĩa, xã hội xã hội chủ nghĩa,...). Khi nghiên cứu xã hội loài người, C.Mác bắt đầu từ cùng một quá trình sản xuất thông qua các phương thức sản xuất nối tiếp nhau. Phương thức sản xuất bao gồm hai quan hệ cơ bản: quan hệ của con người với giới tự nhiên gọi là lực lượng sản xuất và quan hệ của con người với giới tự nhiên gọi là quan hệ sản xuất.
Là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn nhất định của xã hội loài người. Tương ứng với mỗi con đường đó, trong lịch sử xã hội sẽ được hình thành những tính chất, cơ cấu và đặc điểm tương ứng về mặt lịch sử. Và "cách thức mà con người sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết của mình trước hết phụ thuộc vào chính bản chất của những tư liệu sinh hoạt mà anh ta sử dụng và những tư liệu mà anh ta phải tái sản xuất".
Vì vậy, căn cứ vào phương thức sản xuất đặc trưng của mỗi thời đại lịch sử, người ta có thể phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau và hiểu được hình thái kinh tế - xã hội đó thuộc thời đại lịch sử nào.
Mỗi thời kỳ lịch sử có phương thức sản xuất riêng, trong xã hội nguyên thủy, phương thức sản xuất tự nhiên là kỹ thuật đánh cá ở trình độ vũ khí thô sơ, chưa có tính sáng tạo, chưa có yêu cầu về công nghệ. Trong xã hội hiện đại, mỗi phương thức sản xuất đều có những yêu cầu cao hơn, đòi hỏi bằng cấp, bằng cấp và kinh nghiệm làm việc lâu năm mới được tuyển dụng từ các công ty, tư nhân và nhà sản xuất nước. Ví dụ về phương thức sản xuất trong triết học: Phương thức sản xuất của xã hội phong kiến Việt Nam là phương thức sản xuất nông nghiệp sử dụng sức người là chủ yếu, kết hợp với các công cụ thô sơ như cuốc, xẻng,… cày bằng sức trâu. Vì vậy, lợi nhuận thu về không cao, sản phẩm được sản xuất ra ít mang tính chất trao đổi, mua bán. Đó là nền sản xuất thủ công nhỏ, sản lượng thu được không cao và điều này quyết định tính chất của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ: xã hội phong kiến; cơ cấu giai cấp gồm 2 giai cấp chính là địa chủ và nông dân, mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội cũng là giữa địa chủ và nông dân với sự bóc lột địa chủ và nông dân bằng địa tô phong kiến.
2. Vai trò của phương thức sản xuất
Đối với sự vận động của lịch sử nhân loại cũng như đối với sự vận động của từng xã hội cụ thể, sự thay đổi phương thức sản xuất bao giờ cũng là sự thay đổi mang tính cách mạng. Trong sự thay đổi này, các quá trình kinh tế, xã hội, v.v. được chuyển sang chất mới. Và sự thay thế hợp pháp khách quan của các phương thức sản xuất tạo nên quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Phương thức sản xuất là cách thức con người tạo ra của cải vật chất cho xã hội trong một thời kỳ lịch sử nhất định. Bằng cách này, con người quan hệ với thiên nhiên và với nhau trong sản xuất; nói cách khác, phương thức sản xuất là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định với quan hệ sản xuất tương ứng. Hai mặt này được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất, tác động qua lại lẫn nhau, được C. Mác gọi là “mối liên hệ trùng lặp” của bản thân nền sản xuất xã hội.
Mỗi thời kỳ lịch sử đều có phương thức sản xuất riêng và phương thức sản xuất vật chất là động lực quyết định sự phát triển của xã hội loài người. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời thay thế phương thức sản xuất cũ đã lỗi thời thì sớm muộn mọi mặt của đời sống xã hội sẽ có sự thay đổi căn bản từ cơ cấu kinh tế sang cơ cấu giai cấp, từ quan điểm chính trị - xã hội sang thể chế chính trị - xã hội. Do đó, lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử sản xuất, lịch sử của các phương thức sản xuất nối tiếp nhau trong quá trình phát triển. Việc thay thế phương thức sản xuất cũ bằng phương thức sản xuất mới không đơn giản và cũng không dễ dàng. Đây là quá trình cải biến cách mạng. Để trở thành phương thức sản xuất thống trị, phương thức sản xuất mới phải trải qua một cuộc cách mạng xã hội và gắn liền với chế độ chính trị.
Sản xuất vật chất có vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, là hoạt động cơ bản làm nảy sinh và phát triển các quan hệ xã hội của con người; Nó là cơ sở cho sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.
Xuất phát từ nhân tố “con người thực”, C. Mác cho rằng, tiền đề đầu tiên của mọi tồn tại của con người, đó là: “con người phải sống được thì mới làm nên lịch sử”. Bởi muốn có vật chất, con người cần có đồ ăn, thức uống, chỗ ở, quần áo,… những thứ này chỉ có thể được tạo ra từ hoạt động sản xuất vật chất. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên của con người là sản xuất ra tư liệu để thoả mãn những nhu cầu trên, đó là hoạt động cơ bản của con người, là hoạt động phân biệt hoạt động của con người với đối tượng là hoạt động của con người. Để tiến hành sản xuất vật chất, con người không những phải có mối quan hệ với tự nhiên mà còn phải có mối quan hệ với nhau, và trên cơ sở các mối quan hệ sản xuất này nảy sinh các mối quan hệ khác nhau: chính trị, luân lý, đạo đức, pháp luật,… Do đó, trong quá trình sản xuất sản xuất vật chất, con người không chỉ cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội mà còn cải tạo chính mình. Vì vậy, sự phát triển không ngừng của sản xuất vật chất tất yếu làm cho xã hội không ngừng phát triển.
Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi và phát triển của mọi mặt đời sống xã hội. Sự vận động và phát triển của xã hội suy cho cùng là do sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Vì vậy, để lý giải và giải quyết các vấn đề của đời sống xã hội phải xuất phát từ thực trạng sản xuất vật chất của xã hội.
Sản xuất vật chất là cơ sở của tiến bộ xã hội. Sản xuất vật chất không ngừng được các thế hệ loài người phát triển từ dưới lên. Mỗi khi phương thức sản xuất thay đổi thì quan hệ giữa những người trong sản xuất cũng thay đổi theo; và do đó mọi mặt của đời sống xã hội đều thay đổi cùng với sự tiến bộ của phương thức sản xuất. Như vậy, phương thức sản xuất của nó tác động đến sự phát triển của đời sống xã hội, từ đó tạo ra năng suất lao động cao hơn so với phương thức sản xuất phong kiến với trình độ lao động thủ công, hình thức và tổ chức kinh tế còn nhiều hạn chế. Như vậy, các thời đại kinh tế không chỉ khác nhau ở cơ sở hình thức sản xuất mà còn ở chỗ cải tiến như thế nào, bằng công cụ, máy móc gì.
Mỗi xã hội có một phương thức sản xuất nhất định. Sự thay đổi phương thức sản xuất quyết định sự phát triển và tồn tại của loài người từ dưới lên. Phương thức sản xuất là sự thống nhất của các lực lượng sản xuất với nhau ở một mức độ nào đó. 3. Các giai đoạn phát triển của phương thức sản xuất
Theo Mác, xã hội loài người trong các thời kỳ lịch sử khác nhau, ở các khu vực khác nhau có thể trải qua 7 phương thức sản xuất khác nhau. Bán lẻ:
- Phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy: Xã hội loài người được tổ chức theo cấu trúc bộ lạc truyền thống với dưới 50 người trên một đơn vị sản xuất, điển hình là chia sẻ sản xuất và tiêu dùng trong tất cả các sản phẩm xã hội. Vì không có sản phẩm dư thừa nào được sản xuất nên không có khả năng tồn tại các giai cấp thống trị. Vì phương thức sản xuất này không có sự phân chia giai cấp nên nó được coi là một xã hội không có giai cấp. Các công cụ thời kỳ đồ đá, tập quán săn bắn và hái lượm sơ khai, và nền nông nghiệp nguyên thủy là những lực lượng sản xuất chính trong phương thức sản xuất này.
- Phương thức sản xuất châu Á: Khái niệm phương thức sản xuất châu Á chính thức ra đời từ tác phẩm Góp phần phê phán khoa học kinh tế chính trị (1859) của Mác. Đó là kết quả của quá trình nghiên cứu lâu dài của C.Mác, từ Hệ tư tưởng (1845 - 1846) đến Góp phần phê phán kinh tế chính trị học. Từ đó, C.Mác phát hiện ra một số đặc điểm của phương thức sản xuất châu Á và chính thức dùng khái niệm phương thức sản xuất châu Á thay cho khái niệm “hình thức châu Á”. Phương thức sản xuất châu Á được coi là hình thức sơ khai của xã hội có giai cấp, trong đó một nhóm nhỏ thu được sản phẩm xã hội thặng dư bằng bạo lực chống lại các nhóm cộng đồng định cư hoặc không định cư trên lãnh thổ đó. Bóc lột lao động là bóc lột lao động cưỡng bức không được trả lương trong thời gian rảnh mỗi năm (để xây dựng các công trình như kim tự tháp ở Ai Cập, đền thờ ở các thung lũng cổ đại của Lưỡng Hà và Ba Tư, nhà tắm ở công xã cổ đại ở Ấn Độ hay Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc). Hơn nữa, bóc lột lao động còn là bóc lột sản phẩm trực tiếp từ những cộng đồng bị bóc lột. Hình thức chiếm đoạt chính của chế độ này là chiếm đoạt tôn giáo trực tiếp trong các cộng đồng (làng, bản, nhóm) của tất cả những gì tồn tại trong đó. Giai cấp thống trị của xã hội này nói chung là tầng lớp quý tộc bán thần quyền, họ tự coi mình là hiện thân của các vị thần trên trái đất. Lực lượng sản xuất chính của xã hội này bao gồm những người nông dân có kỹ thuật nông nghiệp cơ bản, các công trình xây dựng lớn và lượng sản phẩm khổng lồ dành cho phúc lợi xã hội. - Phương thức sản xuất có chiếm hữu nô lệ: Không giống phương thức châu Á, nhưng khác ở hình thức sở hữu là sự chiếm hữu trực tiếp của cá nhân những gì thuộc về loài người. Hơn nữa, giai cấp thống trị thường tránh nói rằng họ là hiện thân của các vị thần, thích nói rằng họ là con cháu của các vị thần, hoặc tìm kiếm những lời biện minh khác để bảo vệ quyền cai trị của họ. Các xã hội Hy Lạp và La Mã cổ đại là những ví dụ điển hình của phương thức sản xuất này. Các lực lượng sản xuất của chế độ này bao gồm nông nghiệp (cây trồng và vật nuôi), việc sử dụng tích cực gia súc trong nông nghiệp làm sức kéo, cũng như hệ thống thương mại đang bắt đầu phát triển.
- Phương thức sản xuất phong kiến
- phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
- Phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa
- Các phương thức sản xuất hàng hóa công cộng. 4. Phương thức sản xuất phổ biến
Hiện nay, xã hội loài người thường sử dụng bốn phương thức sản xuất phổ biến dưới đây:
- Phương thức sản xuất là nguồn động lực để con người tách khỏi xác động vật, là yếu tố cơ bản để phân biệt động vật với con người.
- Phương thức sản xuất là sự tồn tại và phát triển của loài người. Để tồn tại và phát triển, trước hết con người phải hiểu được các tư liệu vật chất, muốn hiểu được, con người phải dựa vào quá trình sản xuất vật chất.
- Phương thức sản xuất là động lực thúc đẩy sự phát triển và biến đổi của hệ thống xã hội, quá trình sản xuất không ngừng biến đổi nó tác động đến phương thức sản xuất làm cho xã hội ngày càng phát triển và mở rộng. . - Phương thức sản xuất là tiền đề của các quan hệ xã hội.
Nội dung bài viết:
Bình luận