Phúc thẩm có hòa giải không

1. Hòa giải tại  tòa án sơ thẩm 

 Tại phiên tòa sơ thẩm, pháp luật tố tụng không bắt buộc Tòa án phải tổ chức phiên hòa giải theo trình tự, cách thức quy định tại Chương III; Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào việc pháp luật tố tụng không có quy định trực tiếp về hòa giải tại  tòa sơ thẩm để cho rằng tại  tòa sơ thẩm  không diễn ra hòa giải là không đúng. Bởi lẽ, mặc dù pháp luật tố tụng không  quy định trực tiếp về  hòa giải, nhưng  hòa giải vẫn tồn tại thông qua việc chủ tọa phiên tòa hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không. (Khoản 1 Điều 246 BLDS 2015). Việc Tòa án hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không thực chất là việc Tòa án xem xét, xác minh khả năng hòa giải của các bên đương sự. 

 Sự khác biệt giữa hòa giải trước tòa sơ thẩm và giai đoạn chuẩn bị xét xử nằm ở sự chủ động và vai trò của tòa án trong việc hòa giải của các bên đương sự. Hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm được coi là việc các bên đương sự  chủ động tìm kiếm sự thống nhất về quan điểm của mình trong việc giải quyết vụ án, trong trường hợp này Tòa án  là cơ quan duy nhất công nhận sự thỏa thuận của các bên nếu sự thỏa thuận này không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Do đó, việc hòa giải này được các bên liên quan thống nhất với nhau và sự  thỏa thuận này có thể diễn ra bất cứ lúc nào kể từ khi  quyết định đưa vụ án ra xét xử cho đến khi làm thủ tục mở phiên tòa. Các đương sự tự  thương lượng với nhau về các vấn đề của vụ án, gặp nhau để giải quyết tranh chấp không phụ thuộc vào thời gian, địa điểm nhất định về trình tự, thủ tục mà không có bất kỳ sự can thiệp nào của Tòa án. 

 Trong thủ tục khai mạc phiên điều trần, chủ tọa phiên điều trần xác nhận lại sự thỏa thuận của các bên liên quan. Nếu các bên đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì Toà án ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các bên đương sự. Hòa giải tại  tòa án cấp sơ thẩm cần chú ý những điểm sau: 

 

 * Về thời điểm hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm: Theo quy định của BLDS năm 2015, vấn đề các đương sự có tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không là do Chủ tọa phiên tòa đặt ra và được thực hiện trong phần thủ tục khai mạc phiên tòa (Điều 246, mục 2, chương XIV BLDS năm 2015). Sau khi mở phiên tòa và thực hiện các thủ tục theo quy định tại Điều 239 Bộ luật dân sự năm 2015, chủ tọa phiên tòa đã yêu cầu và giải quyết việc sửa đổi, bổ sung, rút ​​yêu cầu; Chủ tọa phiên tòa hỏi các bên có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không. Hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án  là hoạt động cuối cùng của thủ tục mở phiên tòa; Việc các bên đương sự không hòa giải được ở giai đoạn này  là tiền đề cho hoạt động tiếp theo là tranh tụng tại phiên tòa. 

  Mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2015  quy định rõ việc hỏi các đương sự có thỏa thuận được hay không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án  được thực hiện trong quá trình bắt đầu phiên tòa, nhưng tại Phần III - Biên bản bắt đầu phiên tòa của Mẫu số 48 ban hành kèm theo Nghị quyết phiên tòa về mẫu biên bản lại không có. Tại Phần III của Mẫu số 48,  TANDTC đã quy định cứng nhắc nội dung của phần này mà không  có nội dung mở để người sử dụng có thể bổ sung nội dung như các phần khác của biểu mẫu. Đây  là điểm hạn chế tại Mẫu số 48 ban hành kèm theo Nghị quyết  01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng Tòa án nhân dân thành phố xem xét, chỉnh lý. * Nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm: Các  đương sự có thể thoả thuận  với nhau về việc giải quyết vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thì họ chỉ phải chịu 50%  án phí. Nếu tại phiên tòa sơ thẩm mà các  đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án  thì các bên đương sự vẫn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm như đối với trường hợp xét xử vụ án này. Như vậy, tại phiên tòa sơ thẩm, các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì các bên đương sự vẫn phải chịu án phí như đối với trường hợp xét xử sơ thẩm. 

 * Hình thức và hậu quả pháp lý: Tương tự như  giai đoạn chuẩn bị xét xử, khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về hướng giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm thì hội đồng xét xử sẽ xem xét, thảo luận tại phòng nghị án; nếu nội dung thỏa thuận của các đương sự là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội thì bản án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết vụ án. Quyết định này có hiệu lực thi hành ngay mà không bị kháng cáo, kháng nghị theo lệnh kháng cáo. 

th?id=OIP

 2.Hòa giải tại phiên tòa phúc thẩm 

 Tương tự như tại phiên tòa sơ thẩm, khi quá trình tố tụng đến giai đoạn phiên tòa phúc thẩm thì các đương sự vẫn không mất quyền tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên do tính chất của xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị nên việc hòa giải tại phiên tòa phúc thẩm có một số điểm khác biệt cần lưu ý sau: 

 

 * Nội dung hòa giải: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án chỉ ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án (kể cả phần án phí); trong trường hợp các đương sự đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng không thỏa thuận được với nhau về nghĩa vụ chịu án phí thì Tòa án không được ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận mà tiến hành xét xử vụ án theo quy định chung. Tại phiên tòa phúc thẩm, chỉ cần các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án (không thỏa thuận được nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm) và thỏa thuận này không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội thì HĐXX phúc thẩm công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và HĐXX sẽ tự mình xác định nghĩa vụ chịu án phí dựa trên nội dung thỏa thuận của các đương sự. 

  * Hình thức công nhận sự thỏa thuận: Hòa giải trong thời hạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa sơ thẩm được ghi nhận dưới hình thức Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm do vụ án đang tồn tại một bản án dân sự sơ thẩm nên HĐXX phúc thẩm không thể ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự được; bởi khi ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận không làm mất hiệu lực của bản án sơ thẩm nên sẽ tồn tại song song 01 bản án sơ thẩm và 01 Quyết định về việc giải quyết cùng một vụ án. Vì vậy, khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm thì cấp sơ thẩm ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, sửa nội dung  quyết định  công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.  

 * Nghĩa vụ chịu án phí: Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa xét xử phúc thẩm thì nghĩa vụ chịu án phí được xác định: 

 

 – Án phí phúc thẩm: Người kháng cáo phải chịu toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm  là 300.000 đồng. 

 - Án phí dân sự sơ thẩm: Nếu các bên tự thỏa thuận  với nhau thì các bên chịu án phí dân sự sơ thẩm theo thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì Tòa án phải xác định lại án phí dân sự sơ thẩm theo  thỏa thuận về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo