Sự phối hợp giữa cơ quan hành pháp, lập pháp, tư pháp ở Việt Nam

Lập pháp, hành pháp, tư pháp là gì?

Lập pháp, hành pháp và tư pháp là ba khái niệm xuất hiện trong tư tưởng của J. Locke. J. Loke cho rằng quyền lực của nhà nước bao gồm: quyền lập pháp, quyền tư pháp và quyền hành pháp. J. Locke cho rằng ba dạng quyền lực nói trên phải độc lập với nhau thì mới có thể kìm hãm, kiềm chế lẫn nhau. Trong phần tiếp theo, việc phân tích các thủ tục hành pháp, lập pháp và tư pháp chỉ giới hạn trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành. Theo Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp 2013: 

Sự phối hợp giữa cơ quan hành pháp, lập pháp, tư pháp ở Việt Nam
Sự phối hợp giữa cơ quan hành pháp, lập pháp, tư pháp ở Việt Nam

 Quyền lực nhà nước là sự thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. 

 Quyền lực nhà nước ở Việt Nam được giao cho các cơ quan của hệ thống nhà nước. Trong đó, Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến và lập pháp. Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Toà án nhân dân thực hiện quyền tư pháp. Lập pháp là hoạt động làm luật và kiểm soát các hoạt động của cơ quan hành pháp. Thủ tục lập pháp được quy định trong pháp luật, ví dụ: Hiến pháp năm 2013, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Hành pháp là hoạt động thi hành pháp luật. Thủ tục hành pháp được thể hiện thông qua hoạt động của chính quyền và hoạt động của bộ máy hành chính.

 Ví dụ: Luật tổ chức chính phủ 2015, Luật xử lý vi phạm hành chính 2012,….  Tư pháp là hoạt động xét xử dựa trên các đạo luật do cơ quan lập pháp ban hành. Tố tụng tư pháp thể hiện ở hoạt động của hệ thống các cơ quan xét xử. Ở Việt Nam, hệ thống tư pháp bao gồm Hệ thống Tòa án Nhân dân Việt Nam và Viện Kiểm sát Nhân dân Việt Nam. Thủ tục tố tụng do pháp luật quy định, ví dụ: Luật tổ chức tòa án 2015, Luật tố tụng hình sự 2015...  Vi phạm hành chính là hành vi phạm tội do cá nhân, tổ chức thực hiện. Hành vi vi phạm các quy định của Luật quản lý nhà nước  không phải là tội phạm và bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng các hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.  

Thứ nhất, vi phạm hành chính là loại vi phạm gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực quản lý nhà nước. Các mối quan hệ này do nhà nước phân định và pháp luật điều chỉnh. Tuy nội dung đa dạng nhưng các quan hệ xã hội trong quản lý nhà nước được tổ chức và phân  thành những nhóm nhất định do các quy phạm pháp luật hành chính điều chỉnh, tạo nên trật tự quản lý nhà nước thể hiện trong các quy tắc quản lý nhà nước.  Tính xâm hại của các quy phạm quản lý nhà nước về vi phạm hành chính là khả năng xâm hại  các quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật hành chính điều chỉnh và bảo vệ. Đó là sự phá vỡ, lật đổ trật tự quản lý của nhà nước. Tuy mức độ nguy hiểm thấp hơn so với tội phạm, nhưng nó xảy ra thường xuyên, mọi lúc, mọi nơi, tạo  trở ngại lớn trong việc giữ gìn, củng cố trật tự kỷ cương nhà nước, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của xã hội.  

Thứ hai, vi phạm hành chính thể hiện  hành vi do chủ thể thực hiện trái với  quy định của pháp luật hành chính điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước. Cá nhân, tổ chức  thực hiện  hành vi mà pháp luật hành chính  cấm, không thực hiện  hành vi mà pháp luật yêu cầu,  thực hiện  hành vi vượt quá giới hạn mà pháp luật hành chính cho phép đều là  vi phạm hành chính. Mặt khác, hành vi trái pháp luật  không được ngành luật hành chính điều chỉnh và bảo vệ. 

 Thứ ba, lỗi là dấu hiệu pháp lý bắt buộc để xác định hành vi vi phạm hành chính. Sẽ không có đủ cơ sở để truy tố người vi phạm pháp luật khi chủ thể thực hiện hành vi vi phạm không có lỗi. Lỗi là dấu hiệu cơ bản thuộc mặt chủ quan của vi phạm hành chính. Sai sót thể hiện thái độ của người làm giả đối với hành vi vi phạm hành chính và hậu quả của hành vi này tại thời điểm thực hiện. Hành vi được thực hiện phải là kết quả của sự tự lựa chọn, tự  định đoạt của chủ thể  khi có  đủ các điều kiện để lựa chọn, quyết định cách xử sự phù hợp với yêu cầu của trình tự quản lý nhà nước. Lỗi là một trạng thái tâm lý, thể hiện sự nhận thức nên nếu không  nhận thức được tác hại  của hành vi đối với xã hội thì được coi là không có lỗi và không  vi phạm hành chính. Ví dụ: Anh A điều khiển xe mô tô tham gia giao thông mà không có giấy phép lái xe hợp pháp. Anh ta hoàn toàn nhận thức được hành vi của mình là trái với các quy định của pháp luật về giao thông đường bộ. Do đó, anh phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi của mình nên hành vi của anh A là vi phạm hành chính.  

Thứ tư, là dấu hiệu vừa thuộc tính xâm phạm, vừa là dấu hiệu trái pháp luật và được coi là thuộc tính của vi phạm hành chính. Dẫn đến việc nếu có hành vi vi phạm hành chính thì phải bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật. Nó còn được cho là thuộc tính của vi phạm hành chính vì hành vi vi phạm phải bị xử phạt thì mới được coi là vi phạm hành chính. Việc không có thuộc tính này không đủ  để bị coi là vi phạm hành chính. Trong vi phạm hành chính, hình phạt hành chính thể hiện ở nguy cơ người phạm tội phải  chịu hình  phạt hành chính tương ứng.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo